“Em có chắc là cô ta không?” Jenny hỏi tôi vào buổi chiều ngày thứ Bảy hôm sau. Chị đưa Grace đến chơi nhà tôi, nó đang đùa nghịch với Milly ở đầu kia của phòng khách. Tôi tâm sự với Jenny bởi vì tôi cần nói với một ai đấy về chuyện đó, cũng vì Jenny chưa hề gặp Jamie và mặt khác chị ấy rất kín đáo. “Có khi nào em nhầm lẫn không?” “Chị ơi, em nhìn rõ mặt cô ta mà. Em còn nghe cả giọng nói nữa.” “Và cô ta không có một chị em sinh đôi chứ, giống như chị vậy?” “Cô ta không có chị em sinh đôi. Em cảm thấy rất khó chịu khi biết sự thật như vậy. Jamie bảo em rằng cậu ấy vừa mới chở cô ta đến Heathrow.” “Vậy rõ ràng là cô ta chờ cho Jamie đi khỏi và nhảy lên một chiếc taxi và đi thẳng đến Cliveden gặp bạn trai. Ôi trời ơi...” “Em băn khoăn không biết gã kia là ai,” tôi nói. “Em có nhìn rõ không?” “Không đủ gần để biết anh ta là ai, nhưng nhiều khả năng là một trong những người cô ta gặp trong những chuyến đi của mình. Có thể anh ta có việc ghé qua Luân Đôn nên họ thu xếp để gặp lại nhau ở Cliveden. Nhưng em nghe cô ta hỏi, “Mình vẫn ở phòng cũ chứ?”” “Điều đó có nghĩa là họ đã từng ở đó với nhau trước kia, cũng đồng nghĩa với việc chuyện này đã xảy ra lâu rồi. Tội nghiệp Jamie.” “Em phải làm gì đây?” Tôi lắc đầu. “Chà...” Jenny nhún vai. “Chị không nghĩ là em có thể làm được gì. Rốt cuộc thì chuyện đó có thể chấm dứt và, trên lý thuyết, cô ta và Jamie vẫn có thể tiếp tục chung sống hạnh phúc nếu cậu ta không hay biết gì - nếu cô ta may mắn.” “Dù gã kia là ai đi nữa thì cô ta trông có vẻ chết mê chết mệt rồi.” “Chẳng có lợi gì cho em nếu em kể chuyện này với Jamie, Anna ạ” “Vâng. Với lại em không nghĩ là mình có thể nói được - em không chịu được nếu thấy cậu ta bị tổn thương.” “Em có vẻ rất quý cậu ấy, đúng thế không?” “Vâng.” Tôi nghĩ ngợi một lúc. “Em quý cậu ấy. Jamie không chỉ là đối tác làm ăn của em mà còn là một người bạn. Cậu ấy là một người tốt bụng, thú vị và cực kỳ đáng tin cậy mà em thích, tôn trọng và tin tưởng.” “Nhưng tất cả những điều đó sẽ thay đổi,” Jenny nói. “Bởi vì xét cho cùng cậu ta sẽ không tha thứ cho em vì đã gieo rắc những tin xấu. Chị cảm giác là trước sau gì cậu ấy cũng sẽ phát hiện ra sự thật,” chị nói tiếp. “Vợ cậu ấy sẽ phạm sai lầm và cậu ấy sẽ biết. Theo quan điểm của một luật sư thì chị thấy kẻ phản bội thường có một ước muốn trong tiềm thức là mình bị vạch mặt để sau đó mọi việc có thể được giải quyết và họ không còn cảm thấy tội lỗi nữa. Nhưng mà hiện tại thì chúng ta nên xem xét nó theo cách nhìn của em.” Sau khi thảo luận về tình thế khó xử của tôi, chúng tôi đi lại cuối phòng và chơi đùa với lũ trẻ. Tôi nhìn Grace không rời mắt - vẻ xinh đẹp trẻ con khiến nó trở nên đáng yêu vô cùng. Nó có mái tóc xoăn màu vàng nhạt, làn da trắng hồng và đôi mắt màu xanh nước biển. Nó không còn giống Jenny nữa mà có lẽ mang nhiều nét của cha nó, mặc dù tôi không thể hỏi chị về điều đó. Tôi quay sang nhìn Milly. Nó chẳng giống tôi tý nào. Nó mang nhiều nét của Xan và mẹ tôi - hai con người đáng lẽ phải ở gần nó nhất, trừ tôi, nhưng mà rốt cuộc, theo cách này hay cách khác, không hiện hữu nữa. Grace đang bận nấu nướng cái gì đó bằng cái nồi đồ chơi của Milly với những tiếng loảng xoảng của xong chảo va vào nhau. Nó lục lọi trong cái hộp đựng thức ăn giả vờ và lấy ra một cái găng tay nấu bếp. “Grare, cháu có muốn mặc thêm một cái tạp dề không?” Tôi nói. Nó gật đầu, quay lại và đứng yên cho tôi buộc cái tạp dề vào người. “Được rồi, cháu yêu.” Milly đang chơi với ngôi nhà búp bê của mình. Nó giơ lên một trong những con búp bê bằng gỗ bé xíu, mặc một cái áo sơ mi màu hồng có viền đăng ten và một cái áo khoác màu tím. Tôi biết điều gì tiếp theo. “Đâyyy là mẹ tớ,” nó tuyên bố. Nó cầm một con khác lên, con này mặc một chiếc áo phông màu vàng và chiếc quần dài màu xanh. “Còn đâyyy là ba tớ.” Rồi nó đặt hai con búp bê lên hai chiếc giường nhỏ màu xanh nằm cạnh nhau dưới cái vòm màu hồng, phủ chăn bông lên, và đưa ngón tay trỏ lên chạm vào mũi mình. “Suỵt!” Nó thì thầm. “Bây giờ ba mẹ tớ đang ngủ.” “Tớ không có ba,” Grace nói mà vẫn không rời mắt khỏi việc nó đang làm. Milly nhìn nó sững sờ, mặc dù tôi biết là nó đã từng nghe câu đó nhiều lần rồi. Rồi nó quay sang tôi với một ánh mắt ra chiều thương cảm. “Bạn Grace không có ba,” nó lặp lại và lắc đầu một cách buồn bã. “Nhưng bạn Grace rất may mắn,” Jenny nói chen vào ngay, “bởi vì bạn ấy có nhiều người thân khác trong cuộc đời - phải không nhỉ, cục cưng của mẹ?” Grace gật đầu. “Con có Mẹ này, và còn có dì Jackie ở Pháp và cậu Philippe cùng hai anh họ nhỏ, và con có dì Anna và bạn Milly, cùng tất cả các bạn bè và thầy cô giáo ở nhà trẻ - con còn có ông ngoại và bà ngoại nữa chứ.” “Ba mẹ chị à?” Tôi hỏi và Jenny gật đầu. “Vậy hai bác đã đến thăm hai mẹ con rồi à?” “Không hẳn thế.” Chị nhún vai. “Ba mẹ chị chỉ... nhượng bộ thôi. Họ cư xử thật tệ,” chị nói nhưng không một chút cay độc, “nhưng mà chị vẫn muốn Grace là cháu ngoại của ba mẹ chị vì họ là ông bà duy nhất của nó.” “Thế thì về khía cạnh đấy, nó hơn hẳn Milly rồi,” tôi nói trong khi Grace đưa cho tôi một nắm hạt đậu hà lan bằng nhựa có cắm ở trên một cái nêm, loại được dùng với bánh gatô sôcôla đen. “Mmm... ngon quá Grace à. Tất cả những gì nó có là ông ngoại.” “Vậy còn ba mẹ của anh Xan?” “Họ đã già rồi nên không đi đâu ra khỏi Tây Ban Nha. Em nhận được một tấm thiệp từ ông bà nói rằng Milly và em có thể đến thăm họ bất cứ lúc nào, nhưng vì em với Xan chẳng đâu vào đâu nên em ngại đi - thật buồn nếu sang đó mà không có anh ấy đi cùng - để rồi lại hối tiếc những gì đã làm.” “Vả lại giờ đây em đã có một người đàn ông mới rồi,” Jenny nói thẳng trong lúc đang gặm một cái bánh sừng bò tẩm vani với một lọ đậu chiên nhỏ. “Cái này ngon tuyệt Grace ơi.” “Ngon trong ruột non, hả mẹ?” “Đúng vậy, con yêu à. Thế chuyện với Patrick tiến triển đến đâu rồi?” “Cũng... khá tốt. Bọn em thích nhau. Bọn em hấp dẫn lẫn nhau và có nhiều điểm chung.” “Đó là một khởi đầu tốt.” “Chị Jenny ạ, em đã rất cô đơn. Bốn năm là một quãng thời gian dài không được yêu, không được khao khát.” “Đó đúng là một khoảng thời gian dài,” Jenny đồng tình. “Chị vui vì em đã gặp được một người. Nhưng thực lòng mà nói tình cảm mẹ con giữa chị và Grace giờ đây là quá đủ với chị rồi.” “Vậy ra chị thậm chí không... tìm bạn trai mới sao?” “Không. Sẽ rất lâu nữa chị mới làm thế,” Jenny nói khẽ. Tôi nóng lòng muốn hỏi Jenny vì sao phải lâu đến vậy và vì sao chị ấy không bao giờ gặp lại cha của Grace, và anh ta đã làm điều gì khiến chị phải căm ghét như thế. Nhưng Jenny đã chuyển sang chuyện khác, như cách chị ấy vẫn thường làm. “Patrick đã ly dị rồi à?” Chị hỏi tôi. Tôi kể cho chị nghe chuyện của Patrick. “New Zealand cơ à?” Jenny thốt lên. “Thật tội nghiệp cho anh ấy.” Tôi chợt nghĩ niềm cảm thông mà chị ấy dành cho Patrick có vẻ hơi lạ trong bối cảnh chị ấy đã chối bỏ vai trò làm cha Grace của người bạn trai cũ - ấy vậy mà chị ấy chẳng mảy may bận tâm. “Chắc anh ấy giận dữ lắm?” Tôi gật đầu. “Anh ấy có tỏ ra như vậy không?” “À...” Tôi không muốn nói quá nhiều về những buồn phiền của Patrick. “Thỉnh thoảng anh ấy trở nên hơi căng thẳng. Anh ấy thú nhận rằng mình hay bị ảnh hưởng kể cả bởi những chuyện vặt vãnh - ví dụ như nếu có ai đó vượt qua đầu xe hay bắt anh ấy phải chờ điện thoại anh ấy có thể phát cáu lên ngay. Nhưng em biết vì sao như vậy,” tôi nói tiếp, “nên em cũng thông cảm với anh ấy.” “Em không phải làm thế,” Jenny khuyến cáo tôi. “OK- nhưng mà em muốn, bởi vì em thích anh ấy. Và anh ấy cũng thích em. Thật là tuyệt nếu biết có một người đàn ông quan tâm đến mình, kể từ sau khi Xan bỏ đi.” “Patrick đã gặp Milly chưa?” Tôi lắc đầu. “Về chuyện đó thì em không vội.” *** Khi mùa xuân sắp qua, khắp nơi những cây thuộc loài đỗ quyên bắt đầu nhường chỗ cho những cây tử đằng nằm vắt đằng trước hiên nhà hay bám dọc những bức tường, rồi đến tử đinh hương với những bông hoa màu tím trông như những ngọn giáo, tiếp nữa là hoa táo xanh rì và hoa phù du với những cánh hoa trắng thơm nức mà tôi và Milly thường dùng như hoa cưới cho đám cưới búp bê của nó - cuối cùng là hồng và mẫu đơn đầu hè. Patrick và tôi dành thời gian bên nhau ngày càng nhiều hơn và tôi cảm thấy đã đến lúc cho Milly gặp anh. Ban đầu, Patrick giả vờ “đâm sầm” vào chúng tôi trong công viên và giúp tôi bế Milly đặt lên xích đu: mới đầu nó có vẻ nghi ngờ vì vẫn đinh ninh rằng anh đã lấy trộm chiếc giày của nó. Thế rồi anh thường xuyên đến nhà ăn trưa vào ngày Chủ nhật, mang theo rất nhiều hoa cắt từ vườn nhà mình sang cho tôi và sôcôla cho nó. Sau đó tôi mời anh đến dự tiệc sinh nhật của nó nữa. “Ba của con cóo đến không ạ?” nó hỏi khi tôi đặt những cái đĩa bằng giấy có in hình gấu Pooh Winnie lên bàn vào buổi chiều ngày thứ Sáu hôm đó. Tim tôi thắt lại. Sự xuất hiện của Xan ngày càng ít hơn nên tôi không còn bảo Milly rằng ba nó “sẽ đến thăm nó sớm” vì tôi không thể chịu được khi nhìn thấy con thất vọng. Tôi không còn nói về anh ta nhiều như trước đây nữa. Và tôi tránh không xem bản tin buổi sáng vì Milly luôn bật khóc tức tưởi mỗi khi ba nó biến mất khỏi màn hình. Trong khi tôi đang rải những đồng xu trang trí sinh nhật lên trên tấm trải bàn thì Milly, trong bộ quần áo cô tiên màu xanh nhạt mà tôi vừa mua buổi sáng, chạy ra cạnh cửa sổ, leo lên ghế bành và nhìn xuống. “Ba con cóo đến không?” nó lặp lại và nhìn xuống hai đầu con phố như kiểu nó tin là sẽ nhìn thấy ba mình. “Không, con yêu à, ba không đến đâu.” Tôi nói. “Ba sẽ đến mà,” nó khăng khăng. Nó ve vẩy cây đũa thần trong tay. “Ba sẽ đến.” “Không, con yêu, hiện giờ ba rất bận - nhưng sáng nay con đã nhận được thiệp mừng sinh nhật của ba rồi, còn mẹ nhận được email của ba tối hôm qua bảo rằng ba đã gửi một món quà cho con qua bưu điện - thế là ba đang nghĩ đến con rồi. Nhiều người khác sẽ đến mà - Ông ngoại nè, dì Jenny và bạn Grace nè, cô Luisa nữa chứ, và cả các bạn Phoebe và Carla từ nhà trẻ, dì Cassie và dì Sue, vậy tất cả chúng ta sẽ rất vui vẻ. Chú Jamie cũng sẽ ghé qua một lát.” “Chú Jamie?” Nó chạy ù đến hộp đứng sách và lấy ra quyển Chú chuột Gruffalo. “Bác Patrick cũng sẽ đến,” tôi tỏ ra lơ đãng. “Như thế có được không con?” Milly gật đầu chậm rãi với vẻ như là nó không chắc chắn lắm, cũng chỉ vì nó mới biết anh gần đây thôi, tôi nghĩ bụng. Phải cho con bé thêm thời gian để làm quen với anh ấy. Patrick hơi lo lắng về việc gặp gỡ gia đình tôi lần đầu tiên, nhưng cuối cùng anh và ba tôi có vẻ tâm đầu ý hợp - Tôi nghe họ nói chuyện với nhau một cách thân tình về thương mại điện tử; Jamie tỏ ra lịch sự khi tránh đi nơi khác, còn tôi có cảm giác là Sue và Jenny chấm anh ấy. Duy chỉ có Cassie là không ấn tượng mấy. Nó uống rất nhiều sâm banh. Sau khi mọi người đã ra về hết, chỉ còn lại ba tôi và nó, nó nói toẹt ra rằng đáng lẽ Patrick không nên mua xe đạp cho Milly. “Tại sao không?” Tôi hỏi vặn mặc dù không muốn thừa nhận chính tôi cũng hơi bất ngờ khi nhìn thấy chiếc xe đạp trẻ con với một cái mũ bảo hiểm màu hồng. “Chỉ vì anh ta quen con bé chưa lâu. Quà như thế là quá nhiều,” Cassie nói tiếp trong khi Milly đang mải mê nghịch con búp bê Fifi Đừng-Quên-Em-Nhé mà Jamie mua cho nó. “Anh ta chỉ nên mua cho nó vài cây bút vẽ hay là đồ chơi xếp hình thôi. Ba có thấy thế không ạ?” “Thực ra thì con cũng có lý,” ba tôi trả lời. “Nhưng mà anh ta phóng khoáng và muốn lấy lòng Anna nên anh ta có thể muốn tặng Milly thứ gì đó đặc biệt.” “Đúng đó,” tôi rót thêm trà cho ông. “Patrick rất hào phóng và nếu đó là thứ mà anh ấy muốn tặng cháu thì con thấy chẳng sao hết - dù sao thì con cũng thích anh ấy, nên Cassie em đừng chỉ trích anh ấy nữa.” “Em chỉ nói vậy thôi,” nó nhún vai rồi cầm cái máy ảnh lên và xem lại những tấm ảnh vừa mới chụp. “Ảnh này của Milly đẹp quá.” “Chị xem nào.” Tôi ngồi xuống cạnh nó trên ghế bành. “Ừm, trông đẹp đấy.” “Cả lúc nó thổi nến nữa này.” Tôi cắm đầu vào cái màn hình bé xíu. “Em gửi chúng qua email cho chị để chị gửi cho Xan vài tấm.” Tôi nghĩ bụng sẽ hay hơn nếu gửi cho anh ta những tấm không có mặt Patrick mặc dù nếu làm thế anh ta sẽ thấy cuộc đời tôi vẫn đang tiếp diễn tốt đẹp. “Cái ảnh này của Luisa cũng đẹp này.” “Nó vừa bị sụt cân,” Cassie nói. “Trước kia nó mập mà.” “Đúng vậy.” Tôi đã không nhận thấy điều đó. “Chắc tại vì nó đi bơi nhiều quá - tấm này chị Jenny xinh đấy chứ.” “Bây giờ chị ấy khiến em tò mò,” Cassie có vẻ trầm ngâm. “Chị ấy rất thân thiện và cởi mở - chị nói rằng chị ấy hạnh phúc, nhưng đồng thời chị ấy trông không được khỏe, giống như là đang có bệnh.” “À...” Tôi không muốn nói về Jenny với em gái mình. “Một mình nuôi con không dễ chút nào.” Milly trèo lên ghế bành và quàng tay quanh cổ tôi. Tôi đặt nó lên đùi mình. “Ba của Grace có giúp được gì không?” Cassie hỏi. “Ờ... chị nghĩ là không,” tôi nói. “Chẳng có gì.” “Grace không có ba,” Milly nói và lắc lắc đầu. “Sao vậy?” Cassie hỏi thẳng theo đúng phong cách của nó. “Thực sự chị không biết.” Tôi nhún vai. “Ý chị là Jenny không kể với chị à?” “Không.” “Ở tuổi chị ấy vào thời buổi này mà vẫn bí mật thế thì thật là lạ. Chị không cảm thấy lạ à, chị Anna?” “Đôi khi,” tôi thú nhận mặc dù bản thân mình không nén nổi tò mò. “Nhưng chị chẳng bao giờ hỏi thẳng chị ấy cả.” “Vì sao?” “Bởi vì nếu một ai đó không muốn kể với mình chuyện gì đó quan trọng của họ thì mình phải tôn trọng điều đó, nếu không muốn đánh mất quan hệ với họ. Chị quý Jenny nên chị chẳng dại gì làm thế.” “Biết đâu chị ấy lại chẳng muốn kể với chị,” Cassie nói và uống một ngụm sâm banh nữa. “Nếu vậy thì chị có thể nói là Jenny có rất nhiều cơ hội để làm điều đó. Rõ ràng là chị ấy không muốn nên bọn chị chẳng đả động đến nó làm gì.” Cassie không muốn hỏi gì thêm nữa. “Anh Patrick đây này,” nó lại nhìn vào cái máy ảnh. “Anh ấy đẹp trai thật. Em sẽ gửi cho anh ấy tấm này.” “Chị cũng nghĩ vậy,” tôi nói. “Anh ấy ăn mặc rất chỉn chu nữa.” Tôi không phủ nhận điều đó. “Nhưng nút thắt cà vạt...” “Nó làm sao?” “Nó chặt quá.” Tôi ghé mắt vào bức ảnh. “Chị không để ý lắm. Cassie, em đừng soi mói quá.” “Ồ, đó không phải là soi mói,” nó so vai. “Chỉ là quan sát thôi mà. Nói về cà vạt,” nó quay sang ba tôi, “Cà vạt của ba rất thời trang.” “Thế à... cám ơn con.” “Nó là hiệu Pucci phải không ạ?” “Ba không biết nữa. Ba chỉ thích cái kiểu họa tiết hình xoáy màu sáng của nó.” Ông liếc nhìn đồng hồ. “Đã sáu rưỡi rồi, ba đi đây.” “Ba định đi đâu?” Cassie hỏi ông. “À...” Ba tôi đỏ mặt. “Ba... có chút việc phải làm.” “Việc gì thế ạ?” nó kiên trì hỏi khi ông đứng lên. “Ờ... Cầu cống ấy mà. Với nhà Travises. Anna, con đừng quên mấy chậu hoa mới của ba đấy nhé.” Ông cúi xuống hôn Milly. “Ba đã vứt mấy cái cũ đi rồi nên ban công trống trải lắm.” “Ôi trời, con xin lỗi, con bận quá. Thứ Ba con sẽ mang chúng từ vườn ươm về và mang sang cho ba vào cuối tuần.” “Cám ơn con gái. Tạm biệt các con.” Ba tôi hôn lên má từng người. “Em ở lại thêm một lúc nữa,” Cassie nói rồi lại uống sâm banh. “Rồi sau đó em phải đi. Em có hẹn với Zack tối nay.” ”Zack là ai?” Tôi ăn một chút thạch. “Chị tưởng em đang hẹn hò với Sean.” “Ồ, em đá anh ta rồi.” Những người đàn ông của Cassie không bao giờ đá nó mà chỉ có chuyện ngược lại. Nó luôn tự hào với việc nó có “tỷ lệ bỏ bạn trai” là một trăm phần trăm. “Sean là một anh chàng hơi thiếu tự tin,” Cassie lơ đễnh nói trong khi cắt một lát bánh từ chiếc bánh sinh nhật không có trứng của Milly mà Luisa tự tay làm. “Và chị biết không, khi em bảo với anh ta mọi việc kết thúc, anh ta khóc nức nở.” “Khổ thân cậu ta.” “Rồi em bảo” - nó cắn một miếng đá chanh - “Xin anh đấy, Sean, tại sao không cứng rắn lên và hành động như một người đàn ông?” “Chị cảm thấy thương cậu ấy,” tôi nói khẽ và nghĩ bụng mẹ tôi sẽ kinh hãi lắm. Bà đã cố giáo huấn Cassie về những chân giá trị như đã làm với tôi, nhưng mà bất thành: Cassie luôn hành động theo cách mà nó thích. “Dễ đến thì dễ đi.” Tôi nghe tiếng nó thở dài. “Và bây giờ là Zack.” “Hiện tại thì em làm gì?” Tôi vẫn thường hỏi nó câu hỏi này. “À thì... hiện tại chẳng có gì hay ho cả,” nó đáp. “Nên em làm thêm ban đêm. Em thấy như thế cũng tiện vì ban ngày em rảnh rỗi và làm gì tùy thích.” Tôi kêu trời. “Chị mong là không phải - em vẫn gọi nó là gì nhỉ?- giải trí người lớn qua điện thoại nữa chứ?” Tôi bắt đầu dọn bàn. Cassie lắc đầu. “Em bỏ kể từ ngày em nghe giọng thầy giáo dạy piano cũ trên điện thoại.” “Không phải chứ!” Tôi kêu lên. “Thầy Brown a? Người thường đến nhà mình à?” “Vâng ạ,” Cassie lộ vẻ ghê tởm. “Chuyện đó thật nhớp nhúa. Em nhận ra giọng ông ấy.” Nó rùng mình nhớ lại. “Nó làm em không còn muốn tiếp tục làm nữa.” “Chị mừng vì em làm thế. Nhưng hiện giờ thì em làm gì?” “Em đang làm vài việc cho một công ty tên là Decoy Ducks.” Tên đó chẳng gợi lên điều gì cả. “Công ty đó làm về gì?” “À, nó cung cấp dịch vụ đặc biệt, cho những người phụ nữ muốn kiểm tra xem chồng mình có đáng tin không, có thể nói là...” “Ôi Chúa ơi, em làm gái bẫy tình à! Sao em phải đi làm những việc vớ vẩn như vậy hả Cassie?” Tôi bê các thứ ra sau bếp. “Chị không bao giờ hiểu nổi vì sao em luôn bị cuốn vào mặt trái của cuộc đời như thế.” “Nó không vớ vẩn lắm đâu,” nó phản đối yếu ớt và mang mấy cái tách uống trà vào. “Những gì em làm chỉ là nói chuyện thôi - họ là những người chủ động - nhưng giá trị mà nó mang lại cũng đáng kể.” Nó mở cái máy rửa bát. “Ví dụ như tối hôm qua, em phải thử thách tính trung thực của chồng sắp cưới của một khách hàng - một người giàu có còn anh này thì không. Cô ta muốn chắc chắn rằng mình không phạm một sai lầm đắt giá. Vậy nên em chuyện trò với anh ta ở quán bar mà anh ta hay đến sau giờ làm. Chỉ sau năm phút, anh ta đã đặt tay lên lưng em. Sau hai mươi phút, anh ta đề nghị em về khách sạn.Thật kinh tởm,” nó trề môi khinh miệt. Tôi có vẻ thích cái kiểu đa tính cách của Cassie. “Cái đáng kinh tởm nhất phải là việc đi giăng bẫy người khác,” tôi nói trong khi rửa mấy cái ly uống sâm banh. “Đó không phải là giăng bẫy,” nó cự lại. Nếu người đàn ông không muốn lạng quạng, chẳng có người đàn bà nào có thể làm anh ta chú ý. Vấn đề là ở chỗ đó.” “Em cũng biết là điều đó không hoàn toàn đúng mà,” tôi nói. “Ít có gã đàn ông nào từ chối nếu được em dâng tận miệng, việc em đang làm là dụ dỗ họ rồi còn gì. Chị thật chẳng hiểu làm sao em có thể làm được chuyện đó,” tôi nói thêm vào. “Mặt khác thì em đang phung phí đời mình với những công ty hạ đẳng đó.” “Em chẳng thấy gì là khó khăn cả,” nó ngây thơ đáp. “Thật ra em còn thấy nó thú vị là đằng khác - chưa kể em kiếm được ba trăm bảng một đêm. Còn về chuyện phung phí đời mình, chà, em cho rằng không có kinh nghiệm nào là đáng bỏ đi cả - hạ đẳng hay không cũng thế.” “Đấy là ý kiến riêng của chị thôi,” tôi nói. Trong khoảng thời gian đó tôi và Jamie đã hoàn thành mảnh vườn kiểu Ý ở Hampstead. Người khách hàng, chị Simonetta, đã nhờ chúng tôi đến khánh thành nên tôi và Jamie đến cùng với một chai rượu vang trắng. “Tôi rất ấn tượng về mảnh vườn,” chị nói với giọng Ý đặc sệt trong khi chúng tôi đang nhìn những bức hình của mảnh vườn trước khi thiết kế và so sánh với nó hiện tại. Chị vẫy bàn tay với nhiều trang sức trang nhã về phía chúng tôi. “Tôi có thể tưởng tượng ra là mình đang ở nhà bên Calabria.” Mảnh vườn của Simonetta trước kia được thiết kế theo kiểu Victoria rất bình thường, nhưng giờ nó đã thành chính xác những gì chị ấy muốn: một mảnh vườn trong sân đầy đủ vòi phun nước, cây kiểng tỉa, đá lát cẩm thạch, một mái vòm nhỏ dọc theo lối đi và rất nhiều cây hoa thơm ngát vùng Địa Trung Hải, thật ngạc nhiên là trông chúng như đã được trồng từ rất lâu trong những cái chậu giả cổ. “Sự tiện lợi khi trồng nhiều cây trong các chậu nhỏ là chị có thể thường xuyên di chuyển chúng,” tôi nói và mang một chậu hương thảo đến đặt cạnh cửa bếp. “Giống như thay đổi vị trí đồ đạc trong nhà vậy.” “Tôi rất thích cây hoa Đuôi công,” chị ngắm nhìn những nụ hoa nhỏ màu xanh nhạt của nó. “Nó thật... hay.” “Nó rất mong manh,” tôi nhận xét, “sẽ không có vấn đề gì nếu khu vườn nhắm hướng nam và được che chắn tốt, nhưng trong mùa đông chị phải che bộ rễ của nó.” “Tôi cũng thích những cây olive nhỏ này,” Simonetta tiếp tục. “Cả giống đậu ngọt nữa,” chị tỏ ra thích thú. “Tôi luôn nghĩ chúng là một giống thuần Anh.” “Gốc của chúng là ở miền Nam nước Ý,” tôi giảng giải. “Chúng được đưa vào nước Anh đầu thế kỷ mười tám. Tôi đã biết về chúng trong khóa học của mình.” “Cám ơn cô đã cho thêm mấy cây lan Ý,” chị tỏ ra hăng hái khi rót đầy ly rượu của tôi. “Tôi nhớ chúng rất rõ kể từ lúc còn bé. Còn một loại hoa khác cũng đẹp,” chị nói và đưa tay che mắt khỏi ánh nắng mặt trời. “Tôi không nhớ tên nhưng mà nó cao, và bellissima, với những bông hoa màu màu nhạt kết thành một cái ô, mỗi bông trong giống như Campanella. ” “Một cái chuông?” “Đúng vậy. Vào đầu hè có rất nhiều hoa nở trên những đồng cỏ. Chúng có... mùi hương rất nồng và mẹ tôi thường phơi khô chúng.” “Đó có thể làm một loại tỏi ngọt đảo Xixin,” tôi nói. “Nhưng tôi phải kiểm tra lại đã.” Bỗng dưng tôi nhớ tới quyển sách cũ của mẹ tôi, quyển Các loài hoa của miền Nam nước Ý. “Tôi sẽ tìm hiểu về nó và nếu đúng là cây đấy, tôi sẽ mang cho chị mấy củ để trồng vào mùa thu. Nếu sau một tuần mà tôi không quay lại, chị hãy gửi email cho tôi nhé.” “Chắc chắn rồi. Hiện tại thì cô đang làm những kiểu vườn gì khác nữa?” Tôi nghe thấy Simonetta hỏi trong khi đang chụp mấy kiểu ảnh để đưa lên trang web của mình. “Chúng tôi đang xây một khu vườn lớn ở khu Boltons,” Jamie đáp thay tôi. “Việc bố trí mặt bằng đã xong, những gì chúng tôi phải làm bây giờ là trồng cây cho nó và thế là xong.” “Cũng vừa đúng lúc,” tôi bổ sung. “Khách hàng sẽ tổ chức một bữa tiệc sum họp gia đình hoành tráng vào thứ Bảy tuần tới.” “Họ thật là tử tế khi mời chúng ta đến dự tiệc,” tôi nói với Jamie khi chúng tôi chở cây đến vườn nhà Edwards mấy hôm sau đó. “Tôi không mong đợi chuyện đó. Anh có đến dự không?” “Có thể,” Jamie trả lời và đặt cây Ông lão phương đông vào trong cái chậu dành sẵn cho nó. “Đó là một dịp tốt để làm PR,” tôi nói khẽ. “Thậm chí chúng ta có thể kiếm được một hợp đồng khác từ nó ấy chứ.” “Nếu đến thì tôi sẽ đi cùng Thea,” chúng tôi lại quay ra xe. “Thật à?” Jamie nhìn tôi với ánh mắt ra chiều khó hiểu. “Tất nhiên là vậy rồi, Thea là vợ tôi mà.” “Tôi... biết mà,” tôi lắp bắp, cố gắng xua đi cái hình ảnh trong đầu về Thea và người tình của cô ta ở Cliveden. Tôi chui vào phía sau chiếc Volvo của mình và đưa cho Jamie cây hoa mào gà Chilê. “Tôi nghĩ là có thể cô ấy đang... đi xa, vậy thôi.” “Không, cô ấy sẽ về Luân Đôn - thật ra thì từ giờ trở đi cô ấy sẽ ở đây nhiều hơn.” “Thật chứ?” Tôi lôi cây nhài sao ra, cẩn thận để không làm rụng những bông hoa của nó. “Vâng,” Jamie nói. “Sao chị trông có vẻ ngạc nhiên thế nhỉ?” “Bởi vì... cô ấy... làm việc ở nước ngoài suốt mà, chỉ vậy thôi. Nhưng đó là tin tốt đấy chứ.” “Đúng chị ạ. Chúng tôi sẽ có một cuộc sống gần như bình thường giống như những người khác.” Tôi phân vân không hiểu liệu Thea có cố gắng để vun đắp cho hạnh phúc gia đình không, không xét đến tất cả những chuyện khác. “Còn chị sẽ rủ Patrick đi cùng chứ?” Jamie hỏi tôi. “Không. Như tôi đã nói, tôi muốn mọi việc diễn ra từ từ - ngoài ra thì tối hôm đó anh ấy có một buổi nói chuyện về nghề nuôi ong.” *** Việc trồng cây trong vườn nhà Eđwards mất hai ngày, hầu hết thời gian dùng để đưa một hàng những cây chanh lá cam buộc vào nhau đi qua ngôi nhà mà không làm hỏng cái sảnh mới được trang trí lại. Vậy mà khi đưa được chúng vào trong vườn rồi chúng tôi lại phát hiện ra bọc rễ của chúng quá to so với những cái lỗ đào sẵn, nên phải mất thêm một buổi sáng nữa để Jamie thận trọng cắt lại mấy tấm đá lát. Cuối cùng thì tất cả cây cối đã được trồng xong, việc còn lại là chúng tôi phải nhồi những cây hoa thuốc lá màu xanh nhạt và oải hương Pháp vào những chậu lớn bằng đá granít. “Đây là phần tôi thích làm nhất,” tôi nói. “Trồng cây ấy.” “Tại sao vậy?” Jamie hỏi. “Có phải vì nó cho thấy dự án sắp kết thúc?” “Không phải. Tôi thích thiết kế vườn nhưng mà sau khi xong xuôi tôi chỉ muốn được đào bới dưới đất, đặt những cây hoa vào đó và nhìn chúng lớn lên. Điều đó mang lại một cảm giác thỏa mãn vô cùng.” “Quả đúng như vậy.” “Còn vườn nhà tôi nhỏ quá nên chẳng để được mấy. Tôi mong ước có một cái lớn hơn để tha hồ trồng trọt.” “Chị sẽ trồng những loại gì?” “Ồ, tất cả.” Tôi sung sướng đáp. “Nó sẽ đầy ắp nào là thược dược, phi yến, Mỏ quạ, Mơ trân châu, mao địa hoàng, Trường sinh, Cỏ sữa, lưu ly... và còn nhiều nữa - sẽ có hoa nở quanh năm. Cả oải hương Pháp nữa chứ,” tôi ngắm nhìn những cọng hoa tím mịn như lông tơ của nó. “Tôi thích loài hoa này. Chúng như thể sắp bay đến Ascot với những cái mũ trông thật buồn cười.” “Không phải Ascot,” Jamie đính chính tôi. “Mà là lễ hội hóa trang ở Notting Hill chứ.” Tôi cười. “Mấy viên đá vôi trông ổn đấy nhỉ. Tôi đã bảo với anh là chúng sẽ vừa mà,” tôi không thể không nhắc chuyện đó. “Vâng...” Jamie tròn mắt lên. “Chị đúng - và tôi sai.” “Chẳng sao hết - anh có thường thế đâu.” “Tôi nghĩ là do ngày hôm đó tôi buồn quá.” “Tôi biết. Nhưng giờ tất cả đã qua rồi,” tôi nói và bao quát khu vườn vừa hoàn thiện. Jamie thở phào nhẹ nhõm. “Vâng,” cậu ta nói. “Giờ mọi chuyện đã ổn rồi.” Khi quay về nhà tối hôm đó, tôi nhận được mấy cái email của Xan và Mark, cả hai cám ơn tôi đã gửi ảnh sinh nhật Milly. Thật đáng buồn khi ba và cậu ruột nó lại chưa bao giờ gặp nhau, tôi nghĩ bụng. Vì Milly rất ít người thân là đàn ông trong đời nên tôi lại càng vui khi giờ đây mình gắn bó với Patrick - nó cần có bóng dáng một người cha bên cạnh hằng ngày chứ không chỉ vài giờ, hai lần trong một năm. Bà Elaine cũng gửi một email báo rằng sẽ đến thăm mẹ con tôi sớm; email cuối cùng là từ Simonetta, nhắc tôi về giống tỏi ngọt. Tôi lên phòng làm việc và nhìn đống sách về làm vườn của mình - có gần bốn trăm quyển, phần lớn là của mẹ tôi. Tôi vẫn chưa đánh số cho chúng như đã dự định, cho nên tôi phải nhớ quyển nào nằm ở đâu. Tôi lướt ngón tay qua hàng gáy sách và liếc nhìn tên. Những cây thích hợp với bóng râm; Những khu vườn của Gertrude Jekyll; Từ điển bách khoa toàn thư về cây và của Hiệp hội trồng trọt Hoàng Gia...Tôi nhìn xuống kệ bên dưới. Ở đó có quyển sách về các loài hoa của dãy Anpơ mà chị Sue tặng tôi, rồi quyển Cây ông lão và những giống leo khác, Tóm lược lịch sử các loài cây, Các loài hoa của miền Nam nước Ý. “Đây rồi,” tôi mừng rỡ lấy nó ra. Đó là một quyển bìa mềm cũ rích với những trang sách đã phai mờ theo thời gian, giấy thì giòn và có thể vỡ vụn ra bất kỳ lúc nào. Còn cái gáy thì đã nhăn nheo lắm rồi. Tôi ngửi thấy mùi ẩm mốc vì để quá lâu khi lật nó ra. Tôi hình dung ra mẹ tôi nghiền ngẫm từng dòng chữ hay xăm xoi từng bức tranh vẽ bên trong. Tôi lật thử vài trang, một số rơi ra, tôi thấy dấu bút chì của mẹ tôi ghi chú bên lề của chúng: Cần hướng nam; Sống khỏe trong bóng râm; Không nhiều hương. Nét chữ ngay ngắn đổ về trước của mẹ bỗng khiến tôi thấy bà hiện về sống động ngay trước mặt rồi sau đó là một nỗi tiếc nuối vô bờ. “Tỏi ngọt,” tôi lẩm bẩm giở mục lục. Ngón tay tôi chạy dọc xuống những cái tên. “Đậu chổi dứa, Đậu chổi hoang, Cây thân gỗ, Trúc đào...” Nó không nằm trong danh sách những cái tên thông thường, nhưng tên Latinh của nó là gì nhỉ? Tôi phân vân. Tôi nhớ là đã gặp nó rồi, trong một buổi học trên lớp. Nó là “Nectar” hay đại loại như thế. Rồi tôi chợt nhớ ra. Nectar...roscordum. Đúng rồi.Nectaroscordum Siculum, có nghĩa là đến từ Xixin. Tôi lật đến mục N và tìm thấy thông tin về loài hoa. Có cái gì đó rơi ra rồi liệng xuống sàn khi tôi đặt quyển sách trở lại trên giá. Thoạt tiên tôi nghĩ đó là một trang sách bị bục chỉ. Rồi tôi thấy một lá thư, nét chữ của mẹ tôi và một tấm ảnh. Đó là một tấm ảnh màu chụp vội cũ mèm. Trong đó mẹ tôi - chắc bà khoảng hai mươi tám vào lúc ấy - đang ngồi trên một tấm vải carô ở một bãi biển đâu đó, trong một ngày trời trong xanh. Mẹ tôi mặc một cái váy thô ngắn tay với hai màu đen trắng, bà trông có vẻ rất hạnh phúc. Ngồi bên cạnh trên tấm vải là một người đàn ông trạc tuổi bà, rất đẹp trai với mái tóc đen nhánh. Ông ta vận một cái sơ mi hở cổ màu xanh và một cái quần sóc. Trên tấm vải còn có một vài cái đĩa, ly uống rượu và một cái giỏ du lịch đựng một chai rượu sâm banh mở nắp. Hai mái đầu họ chúi vào nhau với một sự thân mật không giấu diếm khi mà cánh tay rắn chắc của người đàn ông quàng qua eo mẹ tôi. Tôi sững sờ nhìn bức ảnh, mặt nóng bừng, rồi tôi lật mặt sau của nó: Chichester, 12 tháng Sáu, 1977, nét chữ của mẹ tôi. Người đàn ông này là ai và mẹ đang làm gì với ông ta? Ba tôi? Với cái kiểu ôm mẹ tôi như thế thì hẳn là không phải rồi. Tim tôi bỗng đập thình thịch khi tôi nhớ ra là ba tôi đi làm ở Braxin mất một năm. Tôi thấy đầu óc quay cuồng khi ngắm kỹ người đàn ông với thân hình rám nắng trong tấm ảnh. Tôi nhìn tấm ảnh lại một lần nữa, mặt nóng ran lên rồi sau đó nhanh chóng trở nên lạnh buốt. Giờ thì tôi không còn nghi ngờ gì về mối quan hệ giữa mẹ tôi và người đàn ông trong ảnh nữa mà tôi còn nhận ra đôi mắt màu xám của ông ta giống y hệt Cassie; tôi nhận ra vầng trán cao và nhô ra phía trước của ông ta ở Cassie. Ông ta cũng có làn da ngăm đen và mái tóc, giống như Cassie, đen, dày và bóng. Tôi nhìn chằm chằm vào tấm ảnh, những hình ảnh cứ lần lượt nhòe đi trong tâm trí, giống như một thấu kính đang cố lấy tiêu cự, rồi bỗng mọi thứ trở nên rõ mồn một. Hai tay run rẩy, tôi quay sang lá thư. Nó là của mẹ tôi gửi cho ba tôi với nhiều chỗ gạch xóa và bỏ trống, rõ ràng đây là bản nháp của một lá thư mà mẹ tôi không thể viết xong. Anh Colin yêu quý... em không biết lấy gì để cám ơn anh về sự rộng lượng mà anh đã dành cho em... Em biết là em không xứng đáng với điều đó... Em tự trách mình... cảm thấy thật hổ thẹn... em sẽ làm bất cứ điều gì có thể để làm nó trở nên dễ dàng hơn với anh... Em đồng ý là chỉ hai ta biết điều này... Tôi sởn hết cả gai ốc. Trên lá thư không ghi ngày nhưng chắc nó đi cùng tấm ảnh. Sau khi đọc lại một lần nữa, tôi kiểm tra quyển sách xem còn có gì dấu bên trong không; chẳng có gì nữa; nhưng ở trang đầu có dòng đề tặng: Tặng Mary, với rất rất nhiều kỷ niệm ngọt ngào, amore a baci, Carlo, tháng Sáu 1977. “Rất nhiều kỷ niệm ngọt ngào?” Tôi thì thào. Tôi nhớ lại cuộc nói chuyện với ba tôi bốn tháng trước. Ba sang đó tám tháng. Xa nhà lâu ngày như thế chắc ba khổ sở lắm ạ. Ừm... rất khổ sở. Đấy là trước lúc mẹ sinh Cassie phải không ạ. Ừ, Cassie sinh một năm sau đó. Vào ngày mười lăm tháng Ba. Tôi thấy bầu không khí xung quanh như bị loãng ra đến mức khó thở. Cất quyển sách trong bàn làm việc, tôi ước gì Simonetta đừng hỏi tôi về giống tỏi ngọt ngày hôm trước. Chắc chắn ba tôi không biết bên trong quyển sách có cất giấu vật gì đó, nếu không ông đã chẳng đưa nó cho tôi. Chuông điện thoại reo khi tôi đi xuống dưới nhà, vẫn còn cảm thấy run. Người sản xuất chương trình của kênh GMTV nhắc tôi về năm cuộc phỏng vấn cho tuần tới. “Chúng tôi đã chuẩn bị đủ tất cả những loại cây cô yêu cầu,” cô ta nói. “Chúng tôi đã đặt xe đến đón cô lúc 6 giờ sáng ngày thứ Hai để cô có thêm thời gian sắp xếp chúng trước khi phỏng vấn. Như thế đã ổn thỏa chưa ạ?” “Quá ổn rồi,” tôi buột miệng đáp. Làm sao tôi có thể tập trung vào công việc được bây giờ? Rốt cuộc thì sự háo hức được làm truyền hình trực tiếp cũng giúp tôi xoay xở được. Tôi đến trường quay lúc 6.30, trang điểm qua một chút rồi đi thẳng lên sân thượng và chuyện trò với Penny Smith về sự cần thiết của việc trồng cây bụi lâu năm trong mùa hè. Chúng tôi đã nói về việc trồng Cúc tím, Cúc vàng, đậu lupin, Hoa phổi; rồi trước khi tôi kịp nhận ra thì cô ta cám ơn và hẹn gặp lại tôi ngày mai, lúc đó tôi đang định nói về việc trồng hoa trong bồn, rồi cô ta khéo léo chuyển sang chủ đề các bà mẹ trẻ vị thành niên. Sau khi quay về nhà, tôi đưa Milly đến Sweat Peas. Tiếp đó tôi gọi điện cho ba tôi thông báo là sẽ mang chậu hoa sang cho ông. “Trên tivi trông con được lắm,” ông nói khi chúng tôi khuân chúng vào từ xe của tôi nửa giờ sau đó. “Họ đưa cả địa chỉ trang web của con lên màn hình.” “Vậy tốt quá.” Tôi bê chậu Quỳ thiên trúc ra. “Con mua cho ba mấy cây này vì chúng ra hoa rất lâu, xen kẽ ở giữa là cây Rau đắng hoa trắng này.” “Nghe có vẻ hay đấy nhỉ. Con không sao đấy chứ?” Ba tôi hỏi khi tôi kéo ra một bao tải đất trồng cây. “Vâng ạ. Con chỉ hơi mệt vì sáng nay phải dậy sớm, thế thôi ạ.” Chúng tôi mang đống chậu cây vào thang máy, ba tôi nhấn nút và chúng tôi từ từ đi lên. “Nhưng ba này...” “Gì vậy con?” “Con muốn hỏi ba một chuyện.” Ông nhìn tôi. “Có vẻ đáng lo ngại nhỉ. Chuyện gì vậy?” “Về... Braxin ấy.” “Braxin?” ba tôi nhắc lại khi thang máy dừng ở tầng mười. “Vâng. Con đang định... sang đó. Cùng với anh Patrick. Đi nghỉ ấy mà.” “Thật chứ?” chúng tôi chuyển đồ vào nhà. “Chà, xa lắm đó.” “Con biết, nhưng mà... con không rõ nên đi vào thời điểm nào là tốt nhất.” Ba tôi khẽ nhún vai hơi lạ. “Ba không rõ lắm...” Ông thò tay vào túi tìm chìa khóa. “Nhưng mà ba đã ở đó một thời gian mà, phải không ạ?” “Ừ.” “Con nhớ là ba nói tám tháng.” “Đúng,” ông lóng ngóng xoay cái ổ khóa. “Vậy là từ tháng nào đến tháng nào ạ?” Chúng tôi im lặng một lát. “Ba có nhớ không?” Tôi nín thở chờ câu trả lời từ ông. Ba tôi đẩy cửa vào. “Ba sang đó năm 1977, từ tháng Giêng đến tháng Tám.” Tôi như bị sụp xuống một cái hố khi nghe ba tôi nói vậy. “Nhưng nó là một đất nước rộng lớn nên còn tùy con muốn đi chỗ nào.” “Tất nhiên rồi. Vậy thì con sẽ tìm hiểu thêm. Vậy là... từ tháng Giêng đến tháng Tám,” tôi lơ đãng nói khi hai ba con khuân mấy chậu cây vào ban công và bắt đầu đổ đất vào. “Trong suốt thời gian đó ba có về nhà không ạ?” Lại một thoáng im lặng khó chịu nữa. “Có không ba?” “Đáng lẽ ba nên về vì ba có mấy ngày phép,” ông trả lời rồi đặt cái xẻng xuống. “Nhưng ba bị sốt rét và không đủ khỏe để có thể bay về. Sau khi bình phục ba quyết định làm gấp cho xong dự án vì đến lúc ấy ba chỉ muốn xong sớm và về nhà. Nó là một trong những khoảng thời gian tồi tệ nhất trong cuộc đời ba,” ông nói khẽ và nhẹ nhàng lôi mấy cái cây ra khỏi chậu của chúng. “Đi như thế là quá lâu và quá xa, với lại sự xa cách không thật tốt cho chuyện hôn nhân...” Ông nói như chỉ cho mình nghe. “Không tốt, dĩ nhiên là không rồi. Dù sao thì con cũng cám ơn ba.” “Đó có phải là tất cả những gì con muốn biết không, Anna?” Tôi ngước mắt nhìn ba tôi. “Vâng ạ, tất cả chỉ có vậy.” Vậy sự thật là thế rồi, tôi nghĩ thầm khi lái xe quay về nhà. Không thể rõ ràng hơn. Mẹ tôi mang thai Cassie trong khi ba tôi đang ở tận Braxin. Tôi lên gác ngắm nhìn tấm ảnh một lần nữa với một cảm giác buồn chênh vênh. Rồi tôi ngồi xuống bàn làm việc, hai tay ôm đầu. Hóa ra cuộc hôn nhân của mẹ tôi không bình thường như tôi nghĩ - trái lại thì có. Bà ngoại tình. Một cảm giác buồn, thất vọng và chán chường lẫn lộn xâm chiếm tôi. Mẹ tôi ngoại tình khi ba tôi đi xa, bà có thai, và bà đã kể hết với ba tôi - bức thư đã nói lên điều đó - rõ ràng là ông đã tha thứ cho bà vì vậy cuộc hôn nhân của họ không kết thúc mà vẫn tiếp tục như không có chuyện gì xảy ra. Khi một đứa trẻ ra đời, ba nghĩ con phải... chấp nhận nó. Đột nhiên tôi cảm thấy thương ba tôi vô cùng. Chắc hẳn ông phải yêu mẹ tôi lắm. Con cần có một ai đó luôn ở bên con. Cho dù... Mẹ tôi luôn bỏ lửng câu với từ “cho dù”. Giờ thì tôi mới biết nó có nghĩa gì. Cú sốc mà tôi trải qua khi phát hiện ra sự thật đã vơi bớt đi vì tôi nghĩ rằng trong thâm tâm tôi đã ngờ ngợ về nó. Dù anh chị em có khác nhau đến mấy vẫn có thể tìm thấy những nét tương đồng dù là nhỏ nhất giữa họ như là sống mũi hay là độ cong của mi mắt. Nhưng mọi thứ của Cassie - thể xác và tâm hồn - đều khác xa tôi và cuối cùng thì tôi cũng đã biết lý do vì sao. Điều gì khiến ba mẹ tôi sinh thêm một đứa con nữa sau sáu năm kể từ khi họ sinh đứa cuối cùng? “Ồ, chúng tôi bị vỡ kế hoạch,” tôi nhớ lại câu mẹ tôi hay nói nếu có ai đó hỏi về việc đó. “Phải không anh yêu?” bà hỏi ba tôi với giọng ngọt ngào trong khi ông chỉ mỉm cười một cách vô thưởng vô phạt. Tôi nhét tấm ảnh vào và giấu quyển sách vào một cái ngăn kéo.
/18
|