Phủ Tứ bối lặc.
Vì Khuynh Thành đột nhiên quay về, sắc mặt Nhan Tử La tươi tỉnh hơn một chút, Bách Hợp cũng thầm thở phào nhẹ nhõm, xem ra trong lòng Tứ gia, vị trí của chủ nhân vẫn rất quan trọng, nếu không sao hôm qua Thập tam gia vừa nói, hôm nay Cách cách đã về rồi.
Khuynh Thành vẫn giống mọi ngày nằm trong lòng Nhan Tử La nũng nịu cười nói, ăn xong bữa, hai mẹ con ngủ trưa dậy, Khuynh Thành đột nhiên nghĩ tới hai câu thơ “Hốt như nhất dạ xuân phong lai, Thiên thụ vạn thụ lê hoa khai”[1], bèn nài nỉ Nhan Tử La dạy nó học thuộc bài thơ này. Nhan Tử La bảo Bách Hợp đến gian phòng phía Tây cầm quyển thơ Đường tới. Liếc mắt nhìn, chính là quyển thơ từng kẹp tờ giấy kia. Lật tới trang có bài Bạch tuyết ca tống Vũ phán quan quy kinh, dạy Khuynh Thành học. Đầu óc Khuynh Thành đặc biệt nhanh nhạy với thơ ca, đọc chưa đến một tuần trà đã thuộc. Chỉ có điều đọc xong rồi vẫn còn thấy hơi thắc mắc.
[1] Hai câu trong bài thơ Bạch tuyết ca tống Vũ phán quan quy kinh (Bài ca Tuyết trắng đưa Vũ phán quan về kinh đô). Dịch nghĩa là: Gió xuân hây hẩy đêm rồi, Ngàn cây lên điểm trắng ngời nở hoa.
“Ngạch nương, tại sao lại nói là ‘Hồ thiên’ nhỉ? Trời mà còn phải phân biệt nữa sao?”, Khuynh Thành nói.
“Thời Đường, vùng đất Đột Quyết[2], Hung Nô ở phía Bắc đều bị gọi là đất Hồ, nên trời ở vùng đất ấy đương nhiên phải gọi là trời Hồ rồi”, Nhan Tử La giải thích.
[2] Một dân tộc thiểu số thời cổ của Trung Quốc, là dân du mục ở vùng núi Altay.
“Vậy, triều Đại Thanh ta có nguồn gốc ở quan ngoại, chẳng phải bị gọi là ‘Hồ’ rồi sao?”, Khuynh Thành nghiêng đầu hỏi tiếp.
Nhan Tử La ngẩn người, sau đó nói: “Thơ mà người xưa viết bao giờ cũng có liên quan tới nơi mà họ sống, thời Đường những vùng Đột Quyết, Hung Nô lạc hậu hơn nhiều so với Trung Nguyên. Người Trung Nguyên bèn coi thường bọn họ, gọi họ là người ‘Hồ’, thật ra, trong câu thơ có mang ý kì thị, không đúng. Giờ Đại Thanh chúng ta đã thống nhất thiên hạ, bốn bể cùng hưng thịnh phát triển, hơn nữa Đại Thanh ủng hộ việc Mãn Hán thành người một nhà, khắp trời đất này đều là con dân của Hoàng gia gia con, không có phân biệt Hồ, Hán gì nữa, vì vậy bầu trời cũng không bị phân biệt”.
“Ồ” Khuynh Thành hiểu biết gật đầu, sau đó lại hỏi: “Ngạch nương, tuyết ở phương Bắc có lớn thế này không? Tháng Tám liệu có tuyết không? Nhưng khi chúng ta cùng Hoàng gia gia đi tái ngoại lại không thấy tuyết?”.
“Bởi vì chúng ta vẫn chưa thật sự vào sâu trong đất Bắc. Còn tuyết rốt cuộc có lớn như thế này không, ta cũng không biết. Có điều, trong thơ Lý Bạch từng viết một câu thế này, ‘Yên sơn tuyết hoa đại như tịch’[3], vì vậy, chắc là thật!”, Nhan Tử La đáp.
[3] Dịch: Núi Yên Chi tuyết rơi như bão
“Hoa tuyết và bão? Không giống chút nào! Một thi nhân cao minh như Lý Bạch sao lại dùng cách so sánh này chứ?” Khuynh Thành trề trề môi.
“Thế con bảo giống cái gì?”, Nhan Tử La cười hỏi.
“Giống rất nhiều thứ, rất giống tơ liễu vào mùa xuân, cũng nhẹ nhàng bay khắp nơi. Ừm, còn giống bồ công anh nữa”, Khuynh Thành tay chống cằm nói.
“Không ngờ bảo bối nhà ta còn có tài ‘vịnh nhứ’.” Nhan Tử La cười.
“Là có ý gì ạ, ngạch nương?”, Khuynh Thành hỏi.
“Cái này, cũng là chuyện thời xưa, thời Đông Tấn có một tài nữ tên Tạ Đạo Uẩn. Một hôm đúng lúc gặp trời tuyết rơi lả tả, giống như hôm nay vậy, Bác của nàng ta nhất thời nổi nhã hứng, liền hỏi các vãn bối đang ngồi: ‘Tuyết rơi thế này giống cái gì?’. Anh họ của Tạ Đạo Uẩn vội tranh trả lời: ‘Ném muối trắng giữa trời’. Tạ Đạo Uẩn lặng lẽ suy nghĩ một lúc, sau đó mới nói: ‘Chưa bằng gió thổi tung tơ liễu’. Vì vậy từ đó về sau, những người con gái có tài học vấn đều được gọi là ‘Vịnh nhứ[4] tài’, Nhan Tử La giải thích.
[4]Nhứ: Sợi bông, hoa nhẹ.
“Anh họ của nàng ta thật ngốc, tuyết với muối trắng chẳng có chút nào giống nhau cả!”, Khuynh Thành đáp, “Ngạch nương, còn có bài thơ nào về tuyết nữa không?”.
Nhan Tử La liền tìm mấy bài thơ dạy con. Khuynh Thành học thuộc rồi, nói rằng mình thích nhất hai câu “Mai tu tốn tuyết tam phân bạch, Tuyết khước thâu mai nhất đoạn hương”[5] trong bài Tuyết Mai của Lư Mai Pha, sau đó hỏi Nhan Tử La thích nhất bài nào. Nhan Tử La suy nghĩ rồi đáp: “‘Lục Nghị tân phôi cửu, Hồng nê tiểu hỏa lô. Vãn lai thiên dục tuyết, Năng ẩm nhất bôi vô?’[6], ngạch nương thích nhất bài này”.
[5] Mai thua tuyết ấy vài phần trắng, Tuyết hẳn nhường Mai mấy bậc hương (người dịch: Hải Đà).
[6] Bài thơ Vấn Lưu Thập Cửu (Hỏi Lưu Thập Cửu) của Bạch Cư Dị thời Đường. Dịch là: “Vừa xong rượu Lục Nghi, Hỏa lò đất đỏ nung. Trời hôm muốn mưa tuyết, Uống một chén chơi không?”.
“Tại sao ạ? Trong này cũng không có tuyết mà!”, Khuynh Thành thắc mắc.
“Đợi khi nào con lớn như ngạch nương rồi, con sẽ hiểu”, Nhan Tử La đáp.
Sau đó hai mẹ con lại gọi Ám Hương mang giấy mực vào, chuẩn bị viết mấy bài thơ đó lên. Nhan Tử La vừa viết được vài chữ, Khuynh Thành liền châu đầu lại nói: “Ngạch nương, chữ của ngạch nương chẳng đẹp gì cả, thua xa a ma”.
“Ta đâu có cần viết cho người khác đọc, xấu chút cũng chẳng sao”, Nhan Tử La cười.
“Ngạch nương, người chẳng có tham vọng gì cả.” Khuynh Thành tiếp tục viết chữ.
Hai người đang viết rất hào hứng thì rèm cửa bị vén lên, một luồng khí lạnh xộc vào, Nhan Tử La bất giác rùng mình, ngẩng đầu lên định hỏi Bách Hợp xem có chuyện gì, nhưng ngây lập tức sững lại. Tay cầm bút vẫn đang giơ lên nửa chừng.
“A ma, người đến rồi, ngạch nương dạy con bài thơ mới đấy”, Khuynh Thành cười nói, nhảy xuống khỏi sập, cầm giấy đưa cho Dận Chân xem.
“Tốt!”, Dận Chân nhìn một lượt, khen. Sau đó chàng tự động ra ngồi cạnh sập, quét sang bên tờ giấy của Nhan Tử La rồi lại thu ánh mắt về, chuyên tâm nhìn Khuynh Thành viết chữ. Nhan Tử La bừng tỉnh, đặt bút xuống, vo tròn tờ giấy đang viết dở trong tay.
“Ngạch nương, người không viết nữa ạ?”, Khuynh Thành nghiêng đầu hỏi.
“Ngày mai lại viết, ngạch nương mệt rồi, không còn sức nữa”, Nhan Tử La đáp. Dịch người về phía sau dựa vào gối. Nghiêng đầu nhìn, sắc mặt Bách Hợp và đám a hoàn đều như sáng bừng lên, giống như ánh sáng của những kẻ vừa trở về từ cõi chết.
Khuynh Thành viết xong, cầm đưa cho Nhan Tử La xem, Nhan Tử La cũng không nói gì. Khuynh Thành bèn chạy quay lại chỗ Dận Chân, nhõng nhẽo nói: “Ngạch nương vừa rồi còn khen con có tài vịnh nhứ đấy, a ma”.
“Thật không?” Dận Chân nhìn Nhan Tử La, “Ngạch nương nói rất đúng, Khuynh Thành rất thông minh”.
Khuynh Thành cười vui vẻ, rồi lại nũng nịu chui vào lòng Nhan Tử La, nghĩ thế nào, nói: “Ngạch nương, hôm nay Thập tam thúc ăn thịt nướng trong đình đấy, chúng ta cũng ăn có được không?”.
“Phiền lắm”, Nhan Tử La chẳng nghĩ ngợi gì đáp luôn. Tên lão Thập tam kia chẳng sáng tạo gì cả, toàn bắt chước.
“Chủ nhân, đồ dùng nướng thịt hôm qua vẫn chưa chuyển lại vào bếp, thịt hươu cũng còn”, Bách Hợp lên tiếng.
Dận Chân bèn ngẩng đầu nhìn Nhan Tử La, lão Thập tam học nàng? Xem ra cuộc sống của nàng tốt hơn mình nhiều, còn có tâm trạng mà thưởng tuyết nướng thịt.
“Tùy thôi”, Nhan Tử La đáp.
Bách Hợp và đám a hoàn vội vàng chuẩn bị. Một lúc sau Bách Hợp lại vào, khẽ hỏi: “Chủ nhân, ăn ở đâu ạ?”.
“Ta không ra ngoài ăn, hỏi Khuynh Thành xem”, Nhan Tử La nói.
“Ngạch nương, xin người mà!” Khuynh Thành ôm cổ mẹ nhõng nhẽo.
“Không có lần sau nhé, chỉ chiều con lần này thôi”, Nhan Tử La đầu hàng.
“A ma, người có muốn ăn không?” Khuynh Thành quay sang hỏi cha mình. Nhan Tử La ngẩn người, lão Thập tam mời chàng sang ăn thịt nướng?
“A ma ăn rồi, con với ngạch nương ăn đi”, Dận Chân đáp, sau đó đứng dậy đi.
Bách Hợp và đám a hoàn quay sang nhìn nhau, hoàn toàn không hiểu đang xảy ra chuyện gì. Nhan Tử La cũng chẳng nói chẳng rằng, Khuynh Thành mẫn cảm “ngửi” thấy có mùi khác thường trong không khí.
“Ngạch nương, a ma không vui ạ?”, con bé hỏi.
“Ta không biết”, Nhan Tử La lắc đầu đáp.
“Ngạch nương, người cũng không vui sao?”, Khuynh Thành hai tay chống má, mắt đảo liên hồi.
“Sao con lại cho rằng ngạch nương không vui?”, Nhan Tử La hỏi.
“Ngạch nương và a ma đều không nói gì, ngạch nương cũng không thỉnh an a ma”, Khuynh Thành nói.
Nhan Tử La không thể phủ nhận, cũng may Sơ Ảnh vào bảo đồ đã chuẩn bị xong, Nhan Tử La bèn thuận thế leo xuống đất, quấn áo cho Khuynh Thành khiến người con bé tròn xoe, sau đó mới đưa con ra ngoài.
Khuynh Thành vì thấy mới lạ, nên ăn rất vui vẻ hào hứng. Nhan Tử La bị Dận Chân làm mất hứng, chẳng có tâm trạng mà ăn uống. Chỉ ngồi nhìn Khuynh Thành khua chân múa tay ăn, còn mình cầm chén rượu, chầm chậm nhấp môi.
Vì sắp Tết, Khuynh Thành liền ở lại trong phủ. Hai mẹ con ngày nào cũng đọc thơ, chơi cờ, Nhan Tử La có hôm tâm trạng vui vẻ, còn bỏ ra hai ngày để làm con gấu cho Khuynh Thành chơi, khiến Bách Hợp và đám a hoàn xót ruột, bởi con gấu đó được làm bằng chiếc áo lông cáo trắng đắt đỏ mà hồi nhỏ Khuynh Thành vẫn mặc. Khuynh Thành thì vui sướng vô cùng, cứ nhăm nhăm đòi cắt nốt chiếc áo choàng màu đỏ rực mà Khang Hy vừa ban cho mình, khiến Bách Hợp lo lắng sợ hãi, chỉ sợ hai chủ nhân nhà mình không cẩn thận phạm vào tội khi quân.
Trong phủ dần dần bắt đầu có không khí Tết, sắc mặt mọi người lấp lánh niềm vui, Tết đến cũng có nghĩa là có rất nhiều quà tặng, không chỉ trong cung, vương công phủ đệ cũng thế.
Bách Hợp bắt đầu quét dọn các phòng và sân vườn, mất rất nhiều thời gian và công sức mới dọn sạch vườn và đám lá cây lẫn với tuyết, khiến cả đám a hoàn lớn bé mệt mỏi, chân tay đau nhức. Nhưng cái giá xứng đáng chính là, khu nhà này không còn giống như bị bỏ hoang nữa.
Giống như những năm trước, thỉnh thoảng lại có đồ được đưa tới. Vải vóc, trang sức, trái cây vân vân. Nhan Tử La chẳng quan tâm, có Bách Hợp và đám a hoàn, nàng có thể phủi tay bỏ mặc.
“Chủ nhân, người cũng nên may thêm vài bộ y phục. Nô tỳ thấy, hãy dùng loại nhung Bắc Kinh và lụa Hàng Châu này đi, màu sắc cũng đẹp, hoa văn cũng đẹp”, Bách Hợp nhìn vải vóc trên bàn nói.
“Đủ mặc là được rồi”, Nhan Tử La chẳng hào hứng đáp.
“Chủ nhân, Tết đến rồi, cũng nên may một cái chứ.” Bách Hợp ôm đống vải nhìn nàng, “Người xem dùng cái nào, nô tỳ bảo bọn họ gọi thợ tới đo”.
Nhan Tử La lúc này mới ngẩng đầu khỏi quyển sách, nhìn nhìn đống vải, giơ tay ra sờ, cảm giác không tồi. Nàng chỉ vào một tấm vải màu tối trên bàn, nói: “Dùng cái đó đi”.
“Màu đỏ gỗ đàn hương? Chủ nhân, nô tỳ thây tấm này đẹp, màu đỏ tươi, rất hợp với không khí Tết, cũng tươi vui nữa”, Bách Hợp gợi ý. Nhan Tử La xua xua tay, “Không chọn nữa, mỗi loại may một cái đi. Phần còn lại các ngươi cũng mang ra mà may y phục”.
“Nô tỳ không dám.” Bách Hợp ôm đống vải đi, gọi một tiểu a hoàn vào, bảo nó ra ngoài tìm thợ đến may y phục.
Nhan Tử La tiếp tục đọc sách. Nha đầu Khuynh Thành không biết chạy đi đâu chơi rồi.
Buổi chiều, liền có bốn cô gái tới lấy số đo cho Nhan Tử La, sau đó cắt vải rồi thu dọn mang đi. Nhan Tử La lúc này mới thở phào, ăn mấy quả ô mai, cảm thấy buồn chán vô cùng, bèn nằm xuống nghỉ ngơi.
Thư phòng phía Nam.
Khang Hy đang ngồi xem tấu chương. Trên ghế, một người đang ngồi cúi đầu buồn bã, thở dài thườn thượt lần thứ N thì nghe Khang Hy nói: “Lão Thập tam, con đến là để thở dài cho ta nghe sao?”.
“Hoàng a ma, nhi thần có viêc khó”, Dận Tường nói, tiện thể lại thở dài một cái.
“Vì vậy mới không chịu đi?” Khang Hy đặt bút xuống, nhìn Dận Tường, “Nói!”.
Dận Tường lập tức cười tươi như hoa cúc vào mùa, nhanh chóng đứng dậy đi tới bên bàn Khang Hy ngồi, lấy từ trong tay áo ra một tờ giấy, “Hoàng a ma, người hãy xem cái này trước”.
Khang Hy nghi hoặc nhìn hắn một cái mới nhận tờ giấy, đọc một lần, “Con đến là để cùng trẫm luận thơ từ?”.
“Hoàng a ma, người cảm thấy bài thơ này thế nào ạ?”, Dận Tường cười hỏi.
“Không có gì đặc biệt. Bài thứ hai khá khẩm hơn.” Khang Hy nói xong nhướn mày nhìn Dận Tường: “Con viết?”.
Dận Tường vội xua tay, “Không phải nhi thần viết, nhi thần chép lại. Nhưng, mấu chốt là ở trong bài thơ”.
Khang Hy lại nhìn hắn một cái, ra hiệu cho hắn nói tiếp.
“Bài thơ đầu tiên của tứ ca viết, bài thứ hai nhi thần đoán là của Nhan Tử La”, Dận Tường nói.
“Đoán?”, Khang Hy hỏi, cầm tờ giấy lên đọc lại một lần.
“Hoàng a ma, nhi thần đoán như thế là vì có nguyên nhân.” Dận Tường suy nghĩ, kể lại một lượt chuyện xảy ra trước cửa phủ Tứ bối lặc cho Khang Hy nghe.
“Thế như con thấy, hôm ấy nha đầu đó đi đâu?”, Khang Hy hỏi.
“Chắc là tới phủ Bát ca thăm My Liễm Diễm, nếu không cũng không thể bị sốc như thế, dám đối đáp với Tứ ca”, Dận Tường nói, “Từ hôm ấy, nhi thần chẳng được sống yên ngày nào, Tứ ca lúc nào cũng mặt lạnh như băng khi nói chuyện với chúng nhi thần, chỉ sai sót nhỉ cũng bị Tứ ca mắng. Bây giờ, nhìn thấy Tứ ca, nhi thần có thể trốn xa bao nhiêu là trốn xa bấy nhiêu”.
“Chẳng trách trẫm cảm thấy lão Tứ gần đây vui buồn thất thường”, Khang Hy dừng lại, rồi nói tiếp, “Nhưng, đây là chuyện nhà lão Tứ, con định kiếm trò vui gì?”.
“Hoàng a ma, mấy hôm trước nhi thần đã ‘động’ vào Tứ ca rồi…” Dận Tường lại kể một lượt, Khang Hy nghe xong, liền cười.
“Lão Thập tam, chuyện này trẫm không quản được. Nhưng, con cũng đừng lo lắng, Tứ ca con lúc nào mặt chẳng lạnh như thế, sẽ không làm gì con đâu!”, Khang Hy nói, sau đó quay sang Lý Đức Toàn: “Lý Đức Toàn, mang tranh ra đây”. Lý Đức Toàn vâng dạ, ra giá tranh đằng sau tìm, không lâu sau lấy ra một cuộn tranh đặt lên bàn.
“Hoàng a ma, đây là?” Dận Tường có chút không hiểu.
“Con hãy đến phủ Tứ ca, đưa cuộn tranh này cho Nhan Tử La”, Khang Hy chọn ra mấy cuộn.
“Đây là của người thưởng?”, Dận Tường hỏi, tiện tay cầm một cuộn tranh mở ra xem, sau đó sững lại nói, “Vẽ lúc nào thế này?”.
“Vẽ hồi đi tái ngoại, chỉ có hai mẹ con nhà ấy là nhiều. Mấy hôm nay bận việc quên mất, may mà có con mang đi cho ta”, Khang Hy nói.
“Hoàng a ma, hay là đợi ngày mai Tứ ca vào cung…”, Dận Tường do dự, hắn không muốn bị Tứ ca đánh.
“Trẫm không muốn nhìn bộ mặt lạnh của nó!”, Khang Hy cười nói.
“Hoàng a ma, người thật thương nhi thần!”, Dận Tường bất mãn lẩm bẩm.
“Lúc mang tới đó, đừng để lão Tứ xem, cứ nói là ý chỉ của trẫm.” Khang Hy nở một nụ cười tính toán. Dận Tường cảm thấy mặt mình xanh lét, thế này có khác gì tới phủ Tứ ca để tự sát đâu?
“Đi đi, ngày mai tới gặp trẫm kể lại xem”, Khang Hy nói xong liền đuổi người. Dận Tường cầm tranh mặt rầu rĩ đi ra.
Kiệu đến trước cửa phủ Tứ bối lặc, Dận Tường xuống kiệu, cầm tranh đi đi lại lại trước cửa mấy vòng. Đám thị vệ đứng ngoài cửa không biết phải đối phó thế nào.
“Tứ gia có ở trong phủ không?”, Dận Tường chạy tới hỏi. Thị vệ sững lại, sau đó đáp: “Bẩm Thập tam gia, hôm nay Tứ gia chưa ra khỏi phủ”.
“À!” Dận Tường đảo tròng mắt, “Bây giờ Thập tam gia ta sẽ vào, nhưng, ngươi không được đi thông báo”.
“Vâng! Thập tam gia.” Thị vệ mặc dù nghi hoặc, nhưng vẫn vâng dạ nghe lệnh. Dù sao Thập tam gia cũng chỉ có thể là để tìm Tứ gia.
Dận Tường lúc này mới rón rén bước vào trong. Đáng tiếc, ông Trời không đứng về phía hắn, đúng lúc Dận Tường định tăng tốc, men theo bờ tường mà đi thì thấy phía sau vang lên giọng nói: “Thập tam thúc?”, Dận Tường rất muốn vờ như không nghe thấy, nhưng nha đầu đó lại nói tiếp câu sau: “A ma, người xem kia có phải là Thập tam thúc không?”.
Sau đó có người húng hắng ho một tiếng, Dận Tường quay lại, nặn ra một nụ cười: “Tứ ca, đệ đang định tìm huynh!”.
“Thư phòng không ở phía ấy!”, Dận Chân bóc mẽ lời nói dối của hắn.
“Trời lạnh, định đi đi lại lại cho ấm”, Dận Tường nói.
“Ồ?”, Dận Chân buông một tiếng. Dận Tường giật giật các thớ thịt, “Gì nhỉ, Tứ ca, đệ là phụng chỉ mang tranh cho Nhan tẩu tẩu”.
Ánh mắt Dận Chân sắc lẹm lướt nhìn cuộn tranh hắn đang cầm bằng hai tay, “Vào thư phòng”, sau đó liền rời bước.
“Tứ ca, nhưng, Hoàng a ma có chỉ, không được cho huynh xem, huynh đừng làm khó đệ”, Dận Tường nói.
Người đi phía trước dừng lại, hơi nghiêng đầu, rồi lại phát ra một từ đơn âm tiết: “Ừm?”. Dận Tường lập tức cười ha hả, “Hoàng a ma nói không thể cho huynh xem, nhưng không nói không thể cho nha đầu Khuynh Thành xem”, sau đó mặt nhăn mày nhó đi theo sau Dận Chân.
“Thập tam thúc, sắc mặt thúc thật khó coi”, Khuynh Thành lon ton theo sau.
“Thế à? Có thể tại ở nhà con lạnh quá”, Dận Tường khẽ lẩm bẩm.
Đến thư phòng, Dận Tường đặt cuộn tranh lên bàn, nhìn nhìn Dận Chân, sau đó bước sang bên cạnh tự ý ngồi xuống.
“Thập tam thúc, tại sao Hoàng gia gia lại ban thưởng tranh cho ngạch nương con?” Khuynh Thành cũng sán lại gần bàn, mắt đầy vẻ tỏ mò, “Ồ con nghĩ ra rồi, là vẽ ngạch nương con phải không?”, tay liền mở cuộn tranh trên bàn ra.
“Đúng là ngạch nương. Nhưng, vẻ mặt này của ngạch nương thật khó coi”, Khuynh Thành trề môi cười.
Ánh mắt Dận Chân quét tới, bối cảnh trong tranh là đêm lửa trại, Nhan Tử La ngồi bên bàn, giơ hai ngón tay lên, vẻ mặt đắc ý vô cùng, ừm, bộ dạng của kẻ tiểu nhân đắc chí.
“Là ở trong đại hội thi võ!”, Khuynh Thành vẫn cười nói, “Tối hôm ấy, ngạch nương còn thắng được hai viên trân châu của Bát thẩm”.
“Hử? Không thấy ngạch nương con lên võ đài thi đấu mà?”, Dận Tường băn khoăn hỏi. Lẽ nào hai người phụ nữ này len lén thi đấu với nhau, nhưng, không thực tế, bụng của My Liễm Diễm khi ấy…
“Thập tam thúc, ngạch nương con sao có thể lên võ đài chứ? Ngạch nương nhát gan như thế. Ngạch nương nói rồi, nhất định phải tránh cho xa, gươm đao không có mắt, ngộ nhỡ không cẩn thận bị thương, sau này cuộc sống không thể tự chủ nữa. Ha ha, có điều, tối hôm ấy, ngạch nương và Bát thẩm cược thắng thua, ngạch nương thắng hai trận, vì vậy với được hai viên trân châu”.
Khuynh Thành giải thích, thuận tay mở cuộn tranh tiếp theo. Dận Chân cậy mình cao, xem hết từng cuộn một.
Cuộn tranh to cuối cùng được mở ra, Khuynh Thành vô thức “oa” lên một tiếng, sau đó tán thưởng nói: “Không ngờ ngạch nương cũng có thể đẹp thế này!”. Con bé làm bộ làm tịch gật gù cái đầu, rồi đột ngột ngẩng lên hỏi, “A ma, người nói xem?”.
Người bị hỏi rõ ràng không ngờ tiểu nha đầu lại hỏi như thế vẻ mặt có phần lúng túng. Dận Tường cũng sáng lại, rõ ràng hắn rất hứng thú, nhìn nhìn, sau đó gật đầu nói: “Quả nhiên người trời!”, nói xong liền có cảm giác mặt mình vừa bị ánh mắt sắc như lưỡi dao quét qua.
“Haizz, họa sĩ cũng thật là biết cách biến gỗ mục thành vật thần kì!”, Khuynh Thành thở dài, nói. Dận Tường nhìn nó thắc mắc, đứa trẻ này có đúng là do Nhan Tử La sinh không? Biến gỗ mục thành vật thần kì? Nghe chẳng giống con gái khen mẹ gì cả?
“A ma, người cũng xem xong rồi, con mang tới cho ngạch nương được không?” Khuynh Thành cuộn tranh lại, chỉ thấy cha mình nhanh tay rút một cuộn trên bàn.
“A ma, người muốn giữ lại tranh của ngạch nương? Vậy con có được nói với ngạch nương không?”, Khuynh Thành nhướn mày hỏi.
“Con nói xem?” Dận Chân liếc xéo Khuynh Thành một cái, kẻ bị nhìn lập tức buông lời như máy: “Thôi thôi, dù sao ngạch nương cũng không biết có bao nhiêu cuộn”, sau đó ôm tranh chạy biến.
Dận Tường ngồi cạnh lò sưởi, len lén liếc Dận Chân, Dận Chân cũng không nói gì, một lúc lâu sau, Dận Tường mới cười, nói: “Tứ ca, coi như nể tình đệ đã mang tranh tới tặng tẩu tẩu, huynh bỏ qua đừng so đo với đệ nữa được không? Hơn nữa, đệ làm thế cũng là vì nghĩ cho Tứ ca huynh!”.
“Hử?” Dận Chân thu lại cuốn tranh, quay đầu nhìn Dận Tường.
“Gì nhỉ, một là, giúp Tứ ca huynh nghĩ thông suốt Nhan tẩu tẩu rốt cuộc có địa vị thế nào trong lòng huynh. Hai là, nếu như xảy ra chuyện gì, tiểu đệ sẽ lập tức tặng cô gái đó cho Tứ ca, chẳng phải nhờ vậy mà Tứ ca cũng có thể biết vị trí của mình trong lòng tẩu tẩu sao? Nếu tẩu tẩu không có phản ứng gì… Cái đó… Haizz… Nhưng, nếu tẩu tẩu ghen lồng ghen lộn, chẳng phải là chuyện vui sao?”, Dận Tường lải nhải.
“Hạ đẳng”, Dận Chân lạnh lùng buông câu kết luận.
“Tứ ca!”, Dận Tường buồn bã kêu lên.
“Hừ hừ!” Dận Chân kiệm lời như vàng.
“Tứ ca, Hoàng a ma đã cho triệu Sách Lăng hồi kinh đón năm mới, Mẫn tỷ tỷ cũng sẽ cùng về. Có thể… có thể để Mẫn tỷ tới khuyên tẩu tẩu.” Dận Tường nói xong vội đứng dậy, “Hoàng a ma còn đang đợi về bẩm báo, tiểu đệ xin cáo từ trước”, sau đó đi như chạy.
Hắn đi rồi, Dận Chân mới mang cuộn tranh ra, cẩn thận trải xuống bàn. Bức họa lấy màn đêm đen như mực của thảo nguyên làm bối cảnh, chỉ vẽ khuôn mặt nghiêng của Nhan Tử La. Nàng lặng lẽ đứng đó, đầu hơi ngước lên, dường như đang ngắm trời, xung quanh nàng, đom đóm bay lượn. Trong bức họa, nhìn nàng vô cùng cô độc, cứ như tất thảy mọi thứ đều chẳng liên quan gì đến nàng.
Nàng đang nghĩ gì? Nghĩ tới cái chết của Dận Giới? Nhưng vẻ mặt nàng chẳng có sự bi thương, đương nhiên cũng không có vui mừng. Rốt cuộc nàng đang nghĩ gì, nàng chẳng nghĩ gì cả?
Bức tranh nhìn rất đẹp, khiến người ta có chút không tin đấy là thật. Cuộn tranh lại, cẩn thận đặt vào ngăn kéo, Dận Chân dựa vào ghế, nhắm mắt.
“Đáng tiếc, tôi không còn đứa con thứ hai để mà mất nữa.” Những lời Nhan Tử La lại vang lên bên tai chàng, trước mặt là ánh mắt quật cường và lạnh lẽo của nàng.
Trong lòng nàng, nàng cho rằng chính chàng đã khiến nàng bị sẩy thai, nàng không trách Bích La, vì vậy khi gặp lại đối mặt với Bích La nàng chẳng chút oán hận. Nàng chỉ trách chàng, vì vậy nàng từ chối chàng, từ thể xác cho tới tâm hồn. Nếu… Dận Chân day day huyệt Thái Dương, nếu hồi đầu không vì nhất thời giận dỗi để Bích La vào phủ, thì tất cả mọi chuyện ngày hôm nay liệu có xảy ra không? Nhưng, dù sao cũng đã xảy ra rồi, chàng phải làm thế nào, có thể làm thế nào mới khiến nàng bình tâm chuyển ý?
Dận Chân bắt đầu rơi vào trạng thái trầm tư.
Vì Khuynh Thành đột nhiên quay về, sắc mặt Nhan Tử La tươi tỉnh hơn một chút, Bách Hợp cũng thầm thở phào nhẹ nhõm, xem ra trong lòng Tứ gia, vị trí của chủ nhân vẫn rất quan trọng, nếu không sao hôm qua Thập tam gia vừa nói, hôm nay Cách cách đã về rồi.
Khuynh Thành vẫn giống mọi ngày nằm trong lòng Nhan Tử La nũng nịu cười nói, ăn xong bữa, hai mẹ con ngủ trưa dậy, Khuynh Thành đột nhiên nghĩ tới hai câu thơ “Hốt như nhất dạ xuân phong lai, Thiên thụ vạn thụ lê hoa khai”[1], bèn nài nỉ Nhan Tử La dạy nó học thuộc bài thơ này. Nhan Tử La bảo Bách Hợp đến gian phòng phía Tây cầm quyển thơ Đường tới. Liếc mắt nhìn, chính là quyển thơ từng kẹp tờ giấy kia. Lật tới trang có bài Bạch tuyết ca tống Vũ phán quan quy kinh, dạy Khuynh Thành học. Đầu óc Khuynh Thành đặc biệt nhanh nhạy với thơ ca, đọc chưa đến một tuần trà đã thuộc. Chỉ có điều đọc xong rồi vẫn còn thấy hơi thắc mắc.
[1] Hai câu trong bài thơ Bạch tuyết ca tống Vũ phán quan quy kinh (Bài ca Tuyết trắng đưa Vũ phán quan về kinh đô). Dịch nghĩa là: Gió xuân hây hẩy đêm rồi, Ngàn cây lên điểm trắng ngời nở hoa.
“Ngạch nương, tại sao lại nói là ‘Hồ thiên’ nhỉ? Trời mà còn phải phân biệt nữa sao?”, Khuynh Thành nói.
“Thời Đường, vùng đất Đột Quyết[2], Hung Nô ở phía Bắc đều bị gọi là đất Hồ, nên trời ở vùng đất ấy đương nhiên phải gọi là trời Hồ rồi”, Nhan Tử La giải thích.
[2] Một dân tộc thiểu số thời cổ của Trung Quốc, là dân du mục ở vùng núi Altay.
“Vậy, triều Đại Thanh ta có nguồn gốc ở quan ngoại, chẳng phải bị gọi là ‘Hồ’ rồi sao?”, Khuynh Thành nghiêng đầu hỏi tiếp.
Nhan Tử La ngẩn người, sau đó nói: “Thơ mà người xưa viết bao giờ cũng có liên quan tới nơi mà họ sống, thời Đường những vùng Đột Quyết, Hung Nô lạc hậu hơn nhiều so với Trung Nguyên. Người Trung Nguyên bèn coi thường bọn họ, gọi họ là người ‘Hồ’, thật ra, trong câu thơ có mang ý kì thị, không đúng. Giờ Đại Thanh chúng ta đã thống nhất thiên hạ, bốn bể cùng hưng thịnh phát triển, hơn nữa Đại Thanh ủng hộ việc Mãn Hán thành người một nhà, khắp trời đất này đều là con dân của Hoàng gia gia con, không có phân biệt Hồ, Hán gì nữa, vì vậy bầu trời cũng không bị phân biệt”.
“Ồ” Khuynh Thành hiểu biết gật đầu, sau đó lại hỏi: “Ngạch nương, tuyết ở phương Bắc có lớn thế này không? Tháng Tám liệu có tuyết không? Nhưng khi chúng ta cùng Hoàng gia gia đi tái ngoại lại không thấy tuyết?”.
“Bởi vì chúng ta vẫn chưa thật sự vào sâu trong đất Bắc. Còn tuyết rốt cuộc có lớn như thế này không, ta cũng không biết. Có điều, trong thơ Lý Bạch từng viết một câu thế này, ‘Yên sơn tuyết hoa đại như tịch’[3], vì vậy, chắc là thật!”, Nhan Tử La đáp.
[3] Dịch: Núi Yên Chi tuyết rơi như bão
“Hoa tuyết và bão? Không giống chút nào! Một thi nhân cao minh như Lý Bạch sao lại dùng cách so sánh này chứ?” Khuynh Thành trề trề môi.
“Thế con bảo giống cái gì?”, Nhan Tử La cười hỏi.
“Giống rất nhiều thứ, rất giống tơ liễu vào mùa xuân, cũng nhẹ nhàng bay khắp nơi. Ừm, còn giống bồ công anh nữa”, Khuynh Thành tay chống cằm nói.
“Không ngờ bảo bối nhà ta còn có tài ‘vịnh nhứ’.” Nhan Tử La cười.
“Là có ý gì ạ, ngạch nương?”, Khuynh Thành hỏi.
“Cái này, cũng là chuyện thời xưa, thời Đông Tấn có một tài nữ tên Tạ Đạo Uẩn. Một hôm đúng lúc gặp trời tuyết rơi lả tả, giống như hôm nay vậy, Bác của nàng ta nhất thời nổi nhã hứng, liền hỏi các vãn bối đang ngồi: ‘Tuyết rơi thế này giống cái gì?’. Anh họ của Tạ Đạo Uẩn vội tranh trả lời: ‘Ném muối trắng giữa trời’. Tạ Đạo Uẩn lặng lẽ suy nghĩ một lúc, sau đó mới nói: ‘Chưa bằng gió thổi tung tơ liễu’. Vì vậy từ đó về sau, những người con gái có tài học vấn đều được gọi là ‘Vịnh nhứ[4] tài’, Nhan Tử La giải thích.
[4]Nhứ: Sợi bông, hoa nhẹ.
“Anh họ của nàng ta thật ngốc, tuyết với muối trắng chẳng có chút nào giống nhau cả!”, Khuynh Thành đáp, “Ngạch nương, còn có bài thơ nào về tuyết nữa không?”.
Nhan Tử La liền tìm mấy bài thơ dạy con. Khuynh Thành học thuộc rồi, nói rằng mình thích nhất hai câu “Mai tu tốn tuyết tam phân bạch, Tuyết khước thâu mai nhất đoạn hương”[5] trong bài Tuyết Mai của Lư Mai Pha, sau đó hỏi Nhan Tử La thích nhất bài nào. Nhan Tử La suy nghĩ rồi đáp: “‘Lục Nghị tân phôi cửu, Hồng nê tiểu hỏa lô. Vãn lai thiên dục tuyết, Năng ẩm nhất bôi vô?’[6], ngạch nương thích nhất bài này”.
[5] Mai thua tuyết ấy vài phần trắng, Tuyết hẳn nhường Mai mấy bậc hương (người dịch: Hải Đà).
[6] Bài thơ Vấn Lưu Thập Cửu (Hỏi Lưu Thập Cửu) của Bạch Cư Dị thời Đường. Dịch là: “Vừa xong rượu Lục Nghi, Hỏa lò đất đỏ nung. Trời hôm muốn mưa tuyết, Uống một chén chơi không?”.
“Tại sao ạ? Trong này cũng không có tuyết mà!”, Khuynh Thành thắc mắc.
“Đợi khi nào con lớn như ngạch nương rồi, con sẽ hiểu”, Nhan Tử La đáp.
Sau đó hai mẹ con lại gọi Ám Hương mang giấy mực vào, chuẩn bị viết mấy bài thơ đó lên. Nhan Tử La vừa viết được vài chữ, Khuynh Thành liền châu đầu lại nói: “Ngạch nương, chữ của ngạch nương chẳng đẹp gì cả, thua xa a ma”.
“Ta đâu có cần viết cho người khác đọc, xấu chút cũng chẳng sao”, Nhan Tử La cười.
“Ngạch nương, người chẳng có tham vọng gì cả.” Khuynh Thành tiếp tục viết chữ.
Hai người đang viết rất hào hứng thì rèm cửa bị vén lên, một luồng khí lạnh xộc vào, Nhan Tử La bất giác rùng mình, ngẩng đầu lên định hỏi Bách Hợp xem có chuyện gì, nhưng ngây lập tức sững lại. Tay cầm bút vẫn đang giơ lên nửa chừng.
“A ma, người đến rồi, ngạch nương dạy con bài thơ mới đấy”, Khuynh Thành cười nói, nhảy xuống khỏi sập, cầm giấy đưa cho Dận Chân xem.
“Tốt!”, Dận Chân nhìn một lượt, khen. Sau đó chàng tự động ra ngồi cạnh sập, quét sang bên tờ giấy của Nhan Tử La rồi lại thu ánh mắt về, chuyên tâm nhìn Khuynh Thành viết chữ. Nhan Tử La bừng tỉnh, đặt bút xuống, vo tròn tờ giấy đang viết dở trong tay.
“Ngạch nương, người không viết nữa ạ?”, Khuynh Thành nghiêng đầu hỏi.
“Ngày mai lại viết, ngạch nương mệt rồi, không còn sức nữa”, Nhan Tử La đáp. Dịch người về phía sau dựa vào gối. Nghiêng đầu nhìn, sắc mặt Bách Hợp và đám a hoàn đều như sáng bừng lên, giống như ánh sáng của những kẻ vừa trở về từ cõi chết.
Khuynh Thành viết xong, cầm đưa cho Nhan Tử La xem, Nhan Tử La cũng không nói gì. Khuynh Thành bèn chạy quay lại chỗ Dận Chân, nhõng nhẽo nói: “Ngạch nương vừa rồi còn khen con có tài vịnh nhứ đấy, a ma”.
“Thật không?” Dận Chân nhìn Nhan Tử La, “Ngạch nương nói rất đúng, Khuynh Thành rất thông minh”.
Khuynh Thành cười vui vẻ, rồi lại nũng nịu chui vào lòng Nhan Tử La, nghĩ thế nào, nói: “Ngạch nương, hôm nay Thập tam thúc ăn thịt nướng trong đình đấy, chúng ta cũng ăn có được không?”.
“Phiền lắm”, Nhan Tử La chẳng nghĩ ngợi gì đáp luôn. Tên lão Thập tam kia chẳng sáng tạo gì cả, toàn bắt chước.
“Chủ nhân, đồ dùng nướng thịt hôm qua vẫn chưa chuyển lại vào bếp, thịt hươu cũng còn”, Bách Hợp lên tiếng.
Dận Chân bèn ngẩng đầu nhìn Nhan Tử La, lão Thập tam học nàng? Xem ra cuộc sống của nàng tốt hơn mình nhiều, còn có tâm trạng mà thưởng tuyết nướng thịt.
“Tùy thôi”, Nhan Tử La đáp.
Bách Hợp và đám a hoàn vội vàng chuẩn bị. Một lúc sau Bách Hợp lại vào, khẽ hỏi: “Chủ nhân, ăn ở đâu ạ?”.
“Ta không ra ngoài ăn, hỏi Khuynh Thành xem”, Nhan Tử La nói.
“Ngạch nương, xin người mà!” Khuynh Thành ôm cổ mẹ nhõng nhẽo.
“Không có lần sau nhé, chỉ chiều con lần này thôi”, Nhan Tử La đầu hàng.
“A ma, người có muốn ăn không?” Khuynh Thành quay sang hỏi cha mình. Nhan Tử La ngẩn người, lão Thập tam mời chàng sang ăn thịt nướng?
“A ma ăn rồi, con với ngạch nương ăn đi”, Dận Chân đáp, sau đó đứng dậy đi.
Bách Hợp và đám a hoàn quay sang nhìn nhau, hoàn toàn không hiểu đang xảy ra chuyện gì. Nhan Tử La cũng chẳng nói chẳng rằng, Khuynh Thành mẫn cảm “ngửi” thấy có mùi khác thường trong không khí.
“Ngạch nương, a ma không vui ạ?”, con bé hỏi.
“Ta không biết”, Nhan Tử La lắc đầu đáp.
“Ngạch nương, người cũng không vui sao?”, Khuynh Thành hai tay chống má, mắt đảo liên hồi.
“Sao con lại cho rằng ngạch nương không vui?”, Nhan Tử La hỏi.
“Ngạch nương và a ma đều không nói gì, ngạch nương cũng không thỉnh an a ma”, Khuynh Thành nói.
Nhan Tử La không thể phủ nhận, cũng may Sơ Ảnh vào bảo đồ đã chuẩn bị xong, Nhan Tử La bèn thuận thế leo xuống đất, quấn áo cho Khuynh Thành khiến người con bé tròn xoe, sau đó mới đưa con ra ngoài.
Khuynh Thành vì thấy mới lạ, nên ăn rất vui vẻ hào hứng. Nhan Tử La bị Dận Chân làm mất hứng, chẳng có tâm trạng mà ăn uống. Chỉ ngồi nhìn Khuynh Thành khua chân múa tay ăn, còn mình cầm chén rượu, chầm chậm nhấp môi.
Vì sắp Tết, Khuynh Thành liền ở lại trong phủ. Hai mẹ con ngày nào cũng đọc thơ, chơi cờ, Nhan Tử La có hôm tâm trạng vui vẻ, còn bỏ ra hai ngày để làm con gấu cho Khuynh Thành chơi, khiến Bách Hợp và đám a hoàn xót ruột, bởi con gấu đó được làm bằng chiếc áo lông cáo trắng đắt đỏ mà hồi nhỏ Khuynh Thành vẫn mặc. Khuynh Thành thì vui sướng vô cùng, cứ nhăm nhăm đòi cắt nốt chiếc áo choàng màu đỏ rực mà Khang Hy vừa ban cho mình, khiến Bách Hợp lo lắng sợ hãi, chỉ sợ hai chủ nhân nhà mình không cẩn thận phạm vào tội khi quân.
Trong phủ dần dần bắt đầu có không khí Tết, sắc mặt mọi người lấp lánh niềm vui, Tết đến cũng có nghĩa là có rất nhiều quà tặng, không chỉ trong cung, vương công phủ đệ cũng thế.
Bách Hợp bắt đầu quét dọn các phòng và sân vườn, mất rất nhiều thời gian và công sức mới dọn sạch vườn và đám lá cây lẫn với tuyết, khiến cả đám a hoàn lớn bé mệt mỏi, chân tay đau nhức. Nhưng cái giá xứng đáng chính là, khu nhà này không còn giống như bị bỏ hoang nữa.
Giống như những năm trước, thỉnh thoảng lại có đồ được đưa tới. Vải vóc, trang sức, trái cây vân vân. Nhan Tử La chẳng quan tâm, có Bách Hợp và đám a hoàn, nàng có thể phủi tay bỏ mặc.
“Chủ nhân, người cũng nên may thêm vài bộ y phục. Nô tỳ thấy, hãy dùng loại nhung Bắc Kinh và lụa Hàng Châu này đi, màu sắc cũng đẹp, hoa văn cũng đẹp”, Bách Hợp nhìn vải vóc trên bàn nói.
“Đủ mặc là được rồi”, Nhan Tử La chẳng hào hứng đáp.
“Chủ nhân, Tết đến rồi, cũng nên may một cái chứ.” Bách Hợp ôm đống vải nhìn nàng, “Người xem dùng cái nào, nô tỳ bảo bọn họ gọi thợ tới đo”.
Nhan Tử La lúc này mới ngẩng đầu khỏi quyển sách, nhìn nhìn đống vải, giơ tay ra sờ, cảm giác không tồi. Nàng chỉ vào một tấm vải màu tối trên bàn, nói: “Dùng cái đó đi”.
“Màu đỏ gỗ đàn hương? Chủ nhân, nô tỳ thây tấm này đẹp, màu đỏ tươi, rất hợp với không khí Tết, cũng tươi vui nữa”, Bách Hợp gợi ý. Nhan Tử La xua xua tay, “Không chọn nữa, mỗi loại may một cái đi. Phần còn lại các ngươi cũng mang ra mà may y phục”.
“Nô tỳ không dám.” Bách Hợp ôm đống vải đi, gọi một tiểu a hoàn vào, bảo nó ra ngoài tìm thợ đến may y phục.
Nhan Tử La tiếp tục đọc sách. Nha đầu Khuynh Thành không biết chạy đi đâu chơi rồi.
Buổi chiều, liền có bốn cô gái tới lấy số đo cho Nhan Tử La, sau đó cắt vải rồi thu dọn mang đi. Nhan Tử La lúc này mới thở phào, ăn mấy quả ô mai, cảm thấy buồn chán vô cùng, bèn nằm xuống nghỉ ngơi.
Thư phòng phía Nam.
Khang Hy đang ngồi xem tấu chương. Trên ghế, một người đang ngồi cúi đầu buồn bã, thở dài thườn thượt lần thứ N thì nghe Khang Hy nói: “Lão Thập tam, con đến là để thở dài cho ta nghe sao?”.
“Hoàng a ma, nhi thần có viêc khó”, Dận Tường nói, tiện thể lại thở dài một cái.
“Vì vậy mới không chịu đi?” Khang Hy đặt bút xuống, nhìn Dận Tường, “Nói!”.
Dận Tường lập tức cười tươi như hoa cúc vào mùa, nhanh chóng đứng dậy đi tới bên bàn Khang Hy ngồi, lấy từ trong tay áo ra một tờ giấy, “Hoàng a ma, người hãy xem cái này trước”.
Khang Hy nghi hoặc nhìn hắn một cái mới nhận tờ giấy, đọc một lần, “Con đến là để cùng trẫm luận thơ từ?”.
“Hoàng a ma, người cảm thấy bài thơ này thế nào ạ?”, Dận Tường cười hỏi.
“Không có gì đặc biệt. Bài thứ hai khá khẩm hơn.” Khang Hy nói xong nhướn mày nhìn Dận Tường: “Con viết?”.
Dận Tường vội xua tay, “Không phải nhi thần viết, nhi thần chép lại. Nhưng, mấu chốt là ở trong bài thơ”.
Khang Hy lại nhìn hắn một cái, ra hiệu cho hắn nói tiếp.
“Bài thơ đầu tiên của tứ ca viết, bài thứ hai nhi thần đoán là của Nhan Tử La”, Dận Tường nói.
“Đoán?”, Khang Hy hỏi, cầm tờ giấy lên đọc lại một lần.
“Hoàng a ma, nhi thần đoán như thế là vì có nguyên nhân.” Dận Tường suy nghĩ, kể lại một lượt chuyện xảy ra trước cửa phủ Tứ bối lặc cho Khang Hy nghe.
“Thế như con thấy, hôm ấy nha đầu đó đi đâu?”, Khang Hy hỏi.
“Chắc là tới phủ Bát ca thăm My Liễm Diễm, nếu không cũng không thể bị sốc như thế, dám đối đáp với Tứ ca”, Dận Tường nói, “Từ hôm ấy, nhi thần chẳng được sống yên ngày nào, Tứ ca lúc nào cũng mặt lạnh như băng khi nói chuyện với chúng nhi thần, chỉ sai sót nhỉ cũng bị Tứ ca mắng. Bây giờ, nhìn thấy Tứ ca, nhi thần có thể trốn xa bao nhiêu là trốn xa bấy nhiêu”.
“Chẳng trách trẫm cảm thấy lão Tứ gần đây vui buồn thất thường”, Khang Hy dừng lại, rồi nói tiếp, “Nhưng, đây là chuyện nhà lão Tứ, con định kiếm trò vui gì?”.
“Hoàng a ma, mấy hôm trước nhi thần đã ‘động’ vào Tứ ca rồi…” Dận Tường lại kể một lượt, Khang Hy nghe xong, liền cười.
“Lão Thập tam, chuyện này trẫm không quản được. Nhưng, con cũng đừng lo lắng, Tứ ca con lúc nào mặt chẳng lạnh như thế, sẽ không làm gì con đâu!”, Khang Hy nói, sau đó quay sang Lý Đức Toàn: “Lý Đức Toàn, mang tranh ra đây”. Lý Đức Toàn vâng dạ, ra giá tranh đằng sau tìm, không lâu sau lấy ra một cuộn tranh đặt lên bàn.
“Hoàng a ma, đây là?” Dận Tường có chút không hiểu.
“Con hãy đến phủ Tứ ca, đưa cuộn tranh này cho Nhan Tử La”, Khang Hy chọn ra mấy cuộn.
“Đây là của người thưởng?”, Dận Tường hỏi, tiện tay cầm một cuộn tranh mở ra xem, sau đó sững lại nói, “Vẽ lúc nào thế này?”.
“Vẽ hồi đi tái ngoại, chỉ có hai mẹ con nhà ấy là nhiều. Mấy hôm nay bận việc quên mất, may mà có con mang đi cho ta”, Khang Hy nói.
“Hoàng a ma, hay là đợi ngày mai Tứ ca vào cung…”, Dận Tường do dự, hắn không muốn bị Tứ ca đánh.
“Trẫm không muốn nhìn bộ mặt lạnh của nó!”, Khang Hy cười nói.
“Hoàng a ma, người thật thương nhi thần!”, Dận Tường bất mãn lẩm bẩm.
“Lúc mang tới đó, đừng để lão Tứ xem, cứ nói là ý chỉ của trẫm.” Khang Hy nở một nụ cười tính toán. Dận Tường cảm thấy mặt mình xanh lét, thế này có khác gì tới phủ Tứ ca để tự sát đâu?
“Đi đi, ngày mai tới gặp trẫm kể lại xem”, Khang Hy nói xong liền đuổi người. Dận Tường cầm tranh mặt rầu rĩ đi ra.
Kiệu đến trước cửa phủ Tứ bối lặc, Dận Tường xuống kiệu, cầm tranh đi đi lại lại trước cửa mấy vòng. Đám thị vệ đứng ngoài cửa không biết phải đối phó thế nào.
“Tứ gia có ở trong phủ không?”, Dận Tường chạy tới hỏi. Thị vệ sững lại, sau đó đáp: “Bẩm Thập tam gia, hôm nay Tứ gia chưa ra khỏi phủ”.
“À!” Dận Tường đảo tròng mắt, “Bây giờ Thập tam gia ta sẽ vào, nhưng, ngươi không được đi thông báo”.
“Vâng! Thập tam gia.” Thị vệ mặc dù nghi hoặc, nhưng vẫn vâng dạ nghe lệnh. Dù sao Thập tam gia cũng chỉ có thể là để tìm Tứ gia.
Dận Tường lúc này mới rón rén bước vào trong. Đáng tiếc, ông Trời không đứng về phía hắn, đúng lúc Dận Tường định tăng tốc, men theo bờ tường mà đi thì thấy phía sau vang lên giọng nói: “Thập tam thúc?”, Dận Tường rất muốn vờ như không nghe thấy, nhưng nha đầu đó lại nói tiếp câu sau: “A ma, người xem kia có phải là Thập tam thúc không?”.
Sau đó có người húng hắng ho một tiếng, Dận Tường quay lại, nặn ra một nụ cười: “Tứ ca, đệ đang định tìm huynh!”.
“Thư phòng không ở phía ấy!”, Dận Chân bóc mẽ lời nói dối của hắn.
“Trời lạnh, định đi đi lại lại cho ấm”, Dận Tường nói.
“Ồ?”, Dận Chân buông một tiếng. Dận Tường giật giật các thớ thịt, “Gì nhỉ, Tứ ca, đệ là phụng chỉ mang tranh cho Nhan tẩu tẩu”.
Ánh mắt Dận Chân sắc lẹm lướt nhìn cuộn tranh hắn đang cầm bằng hai tay, “Vào thư phòng”, sau đó liền rời bước.
“Tứ ca, nhưng, Hoàng a ma có chỉ, không được cho huynh xem, huynh đừng làm khó đệ”, Dận Tường nói.
Người đi phía trước dừng lại, hơi nghiêng đầu, rồi lại phát ra một từ đơn âm tiết: “Ừm?”. Dận Tường lập tức cười ha hả, “Hoàng a ma nói không thể cho huynh xem, nhưng không nói không thể cho nha đầu Khuynh Thành xem”, sau đó mặt nhăn mày nhó đi theo sau Dận Chân.
“Thập tam thúc, sắc mặt thúc thật khó coi”, Khuynh Thành lon ton theo sau.
“Thế à? Có thể tại ở nhà con lạnh quá”, Dận Tường khẽ lẩm bẩm.
Đến thư phòng, Dận Tường đặt cuộn tranh lên bàn, nhìn nhìn Dận Chân, sau đó bước sang bên cạnh tự ý ngồi xuống.
“Thập tam thúc, tại sao Hoàng gia gia lại ban thưởng tranh cho ngạch nương con?” Khuynh Thành cũng sán lại gần bàn, mắt đầy vẻ tỏ mò, “Ồ con nghĩ ra rồi, là vẽ ngạch nương con phải không?”, tay liền mở cuộn tranh trên bàn ra.
“Đúng là ngạch nương. Nhưng, vẻ mặt này của ngạch nương thật khó coi”, Khuynh Thành trề môi cười.
Ánh mắt Dận Chân quét tới, bối cảnh trong tranh là đêm lửa trại, Nhan Tử La ngồi bên bàn, giơ hai ngón tay lên, vẻ mặt đắc ý vô cùng, ừm, bộ dạng của kẻ tiểu nhân đắc chí.
“Là ở trong đại hội thi võ!”, Khuynh Thành vẫn cười nói, “Tối hôm ấy, ngạch nương còn thắng được hai viên trân châu của Bát thẩm”.
“Hử? Không thấy ngạch nương con lên võ đài thi đấu mà?”, Dận Tường băn khoăn hỏi. Lẽ nào hai người phụ nữ này len lén thi đấu với nhau, nhưng, không thực tế, bụng của My Liễm Diễm khi ấy…
“Thập tam thúc, ngạch nương con sao có thể lên võ đài chứ? Ngạch nương nhát gan như thế. Ngạch nương nói rồi, nhất định phải tránh cho xa, gươm đao không có mắt, ngộ nhỡ không cẩn thận bị thương, sau này cuộc sống không thể tự chủ nữa. Ha ha, có điều, tối hôm ấy, ngạch nương và Bát thẩm cược thắng thua, ngạch nương thắng hai trận, vì vậy với được hai viên trân châu”.
Khuynh Thành giải thích, thuận tay mở cuộn tranh tiếp theo. Dận Chân cậy mình cao, xem hết từng cuộn một.
Cuộn tranh to cuối cùng được mở ra, Khuynh Thành vô thức “oa” lên một tiếng, sau đó tán thưởng nói: “Không ngờ ngạch nương cũng có thể đẹp thế này!”. Con bé làm bộ làm tịch gật gù cái đầu, rồi đột ngột ngẩng lên hỏi, “A ma, người nói xem?”.
Người bị hỏi rõ ràng không ngờ tiểu nha đầu lại hỏi như thế vẻ mặt có phần lúng túng. Dận Tường cũng sáng lại, rõ ràng hắn rất hứng thú, nhìn nhìn, sau đó gật đầu nói: “Quả nhiên người trời!”, nói xong liền có cảm giác mặt mình vừa bị ánh mắt sắc như lưỡi dao quét qua.
“Haizz, họa sĩ cũng thật là biết cách biến gỗ mục thành vật thần kì!”, Khuynh Thành thở dài, nói. Dận Tường nhìn nó thắc mắc, đứa trẻ này có đúng là do Nhan Tử La sinh không? Biến gỗ mục thành vật thần kì? Nghe chẳng giống con gái khen mẹ gì cả?
“A ma, người cũng xem xong rồi, con mang tới cho ngạch nương được không?” Khuynh Thành cuộn tranh lại, chỉ thấy cha mình nhanh tay rút một cuộn trên bàn.
“A ma, người muốn giữ lại tranh của ngạch nương? Vậy con có được nói với ngạch nương không?”, Khuynh Thành nhướn mày hỏi.
“Con nói xem?” Dận Chân liếc xéo Khuynh Thành một cái, kẻ bị nhìn lập tức buông lời như máy: “Thôi thôi, dù sao ngạch nương cũng không biết có bao nhiêu cuộn”, sau đó ôm tranh chạy biến.
Dận Tường ngồi cạnh lò sưởi, len lén liếc Dận Chân, Dận Chân cũng không nói gì, một lúc lâu sau, Dận Tường mới cười, nói: “Tứ ca, coi như nể tình đệ đã mang tranh tới tặng tẩu tẩu, huynh bỏ qua đừng so đo với đệ nữa được không? Hơn nữa, đệ làm thế cũng là vì nghĩ cho Tứ ca huynh!”.
“Hử?” Dận Chân thu lại cuốn tranh, quay đầu nhìn Dận Tường.
“Gì nhỉ, một là, giúp Tứ ca huynh nghĩ thông suốt Nhan tẩu tẩu rốt cuộc có địa vị thế nào trong lòng huynh. Hai là, nếu như xảy ra chuyện gì, tiểu đệ sẽ lập tức tặng cô gái đó cho Tứ ca, chẳng phải nhờ vậy mà Tứ ca cũng có thể biết vị trí của mình trong lòng tẩu tẩu sao? Nếu tẩu tẩu không có phản ứng gì… Cái đó… Haizz… Nhưng, nếu tẩu tẩu ghen lồng ghen lộn, chẳng phải là chuyện vui sao?”, Dận Tường lải nhải.
“Hạ đẳng”, Dận Chân lạnh lùng buông câu kết luận.
“Tứ ca!”, Dận Tường buồn bã kêu lên.
“Hừ hừ!” Dận Chân kiệm lời như vàng.
“Tứ ca, Hoàng a ma đã cho triệu Sách Lăng hồi kinh đón năm mới, Mẫn tỷ tỷ cũng sẽ cùng về. Có thể… có thể để Mẫn tỷ tới khuyên tẩu tẩu.” Dận Tường nói xong vội đứng dậy, “Hoàng a ma còn đang đợi về bẩm báo, tiểu đệ xin cáo từ trước”, sau đó đi như chạy.
Hắn đi rồi, Dận Chân mới mang cuộn tranh ra, cẩn thận trải xuống bàn. Bức họa lấy màn đêm đen như mực của thảo nguyên làm bối cảnh, chỉ vẽ khuôn mặt nghiêng của Nhan Tử La. Nàng lặng lẽ đứng đó, đầu hơi ngước lên, dường như đang ngắm trời, xung quanh nàng, đom đóm bay lượn. Trong bức họa, nhìn nàng vô cùng cô độc, cứ như tất thảy mọi thứ đều chẳng liên quan gì đến nàng.
Nàng đang nghĩ gì? Nghĩ tới cái chết của Dận Giới? Nhưng vẻ mặt nàng chẳng có sự bi thương, đương nhiên cũng không có vui mừng. Rốt cuộc nàng đang nghĩ gì, nàng chẳng nghĩ gì cả?
Bức tranh nhìn rất đẹp, khiến người ta có chút không tin đấy là thật. Cuộn tranh lại, cẩn thận đặt vào ngăn kéo, Dận Chân dựa vào ghế, nhắm mắt.
“Đáng tiếc, tôi không còn đứa con thứ hai để mà mất nữa.” Những lời Nhan Tử La lại vang lên bên tai chàng, trước mặt là ánh mắt quật cường và lạnh lẽo của nàng.
Trong lòng nàng, nàng cho rằng chính chàng đã khiến nàng bị sẩy thai, nàng không trách Bích La, vì vậy khi gặp lại đối mặt với Bích La nàng chẳng chút oán hận. Nàng chỉ trách chàng, vì vậy nàng từ chối chàng, từ thể xác cho tới tâm hồn. Nếu… Dận Chân day day huyệt Thái Dương, nếu hồi đầu không vì nhất thời giận dỗi để Bích La vào phủ, thì tất cả mọi chuyện ngày hôm nay liệu có xảy ra không? Nhưng, dù sao cũng đã xảy ra rồi, chàng phải làm thế nào, có thể làm thế nào mới khiến nàng bình tâm chuyển ý?
Dận Chân bắt đầu rơi vào trạng thái trầm tư.
/76
|