Đại tiểu thư xuất hành, hòm xiểng phải thu thập nhiều đến chóng mặt. Thị nữ Mặc Phù của bát tiểu thư bận bịu chân không chạm đất, nào là gương trang điểm tương ngân bạch ngọc, nào là hộp trang sức gỗ lê khảm đồi mồi, và một đôi điền ngọc đấu, nhang vòng hương hoa quế, nhiều vô số kể.
Dù đã có người sắp xếp, bát tiểu thư vẫn tự mình chuẩn bị trang phục. Nhưng mà, chùa miếu không thể so với trong phủ, quần áo tụng kinh lễ Phật không thể quá mức sặc sỡ. Vị bát tiểu thư này cũng là người thành tâm, xiêm y chỉ mang theo hai rương. Theo quan sát của Mạc Hi, nói là trắng mộc mạc, nhưng mỗi bộ đều có thể so với nghê thường vũ y. Đừng nói gì khác, chỉ riêng bộ váy lụa mỏng từ màu da trời chuyển dần sang màu khói, giống như một vết mực đậm từ từ loang dần, tới mép váy liền nhạt đến không nhìn rõ, cổ áo ống tay áo đều dùng chỉ bạc thêu hai vòng mây, lúc cử động quả thật là mỗi bước nở một đóa hoa, hoa khai đạm mặc ngân.
Bên này Lăng phủ gà bay chó sủa chuẩn bị hành trang. Bên kia Mạc Hi trực tiếp đi cửa sau tới tìm Như Vụ.
Đến vừa lúc yêu tăng này đang ở rừng trúc sau núi tự mình nhưỡng rượu. Tay áo xắn cao, chân mang hài cỏ, đang cầm một cái chén sứ thanh hoa lớn có hình cá chép cùng màu múc nước trong vại. Gió lướt qua, rừng trúc xanh ngắt phía sau cùng động, như sóng biếc cuồn cuộn, nổi bật lên tăng bào tuyết trắng như mây bay của y, như muốn mượn gió mà trở lại. Khá lắm yêu tăng phong hoa tuyệt đại!
Mạc Hi lập tức vạch trần y không tuân thủ thanh quy giới luật.
Như Vụ cũng không ngẩng đầu lên, nói: "Muốn khiến tất cả người đời tin tưởng, dùng cách cũ chưa hẳn là đúng."
Mạc Hi không buông tha nói: "Người ta uống rượu, có thể thay phật dát vàng. Có thể đưa vô số cây gỗ lớn từ trong giếng ra ngoài, huynh uống rượu, cả nước giếng cũng không múc được, sao có thể học người ta."
Lời nói sắc bén của hai người đều trích dẫn một câu trong <Ấn Quang pháp sư phục bàng khế trinh thư>, đại ý là Ấn Quang pháp sư nói Tế Công là thánh nhân thần thông quảng đại có thể dùng rượu thịt qua ruột mà trong lòng vẫn nghĩ đến cách truyền bá Phật hiệu của Phật tổ, nhưng ngộ cảnh phùng duyên, không phải ai cũng đạt đến cảnh giới phật pháp đó. Tế Công uống rượu, có thể từ trong giếng nước lấy ra gỗ*, người bình thường có thể làm được sao? Việc này không phải tùy tiện có thể học được. Vì thế khuyên răn người tuyên truyền Phật hiệu phải tuân theo cấm giới của Phật. Nếu không thuận theo Phật chế (quy định của cửa Phật), tức là ma loại.
* Điển tích Tế Công lấy gỗ từ trong giếng: Tương truyền Tế Công là một trong mười tám vị La Hán giáng thế, ông tu ở chùa Linh Ẩn nhưng sau đó ông bị buộc phải bỏ chùa bởi vì trụ trì ghen tị với quyền năng của ông. Sau đó ông chuyển đến chùa Tịnh Từ. Có lần chùa bị cháy mà ko có gỗ để xây lại, trụ trì rất lo lắng. Vì thế Tế Công đã đến nhà một địa chủ ở núi Nga Mi dùng kế quyên được một trăm cây gỗ lớn rồi thả trôi trên sông Trường Giang, không ngờ lại bị quan binh đòi thuế, ông bèn làm cho số gỗ đó chìm xuống sông biến mất. Về đến chùa, ông dẫn trụ trì ra giếng nước trước bếp, gỗ từ giếng cứ trồi lên, khi vớt được sáu mươi cây, trụ trì thấy đã đủ số, gỗ liền không trồi lên nữa.
Như Vụ để bát qua một bên, cũng không giải thích, chỉ hỏi nàng có chuyện gì.
Mạc Hi chỉ nói có nữ quyến muốn vào ở chùa lễ Phật, có thể thuận tiện an trí tại nơi thanh tịnh một chút hay không.
Như Vụ sảng khoái đáp ứng. Vì thế Tùng Vụ Viện trong chùa bình thường không mở ra đón khách hành hương liền được chú tiểu vẩy nước dọn dẹp lại hoàn toàn.
Bát tiểu thư cũng biết Tùng Vụ Viện này vì cách Tàng Kinh Các quá gần, nếu mở ra đón khách hành hương, sẽ không dễ phòng trộm, nên quanh năm đều khóa. Liền tò mò hỏi: "Nơi thanh u như thế, nước chảy róc rách, chim hót líu lo, không biết Mộc cô nương quen biết người nào trong chùa, có thể được vào ở?"
"Là Như Vụ đại sư." Mạc Hi từng cùng Như Vụ đốt đèn luận giao cả đêm, tăng lữ trong chùa đều biết.
Bát tiểu thư mắt sáng lên, nói: "Mộc cô nương quen Như Vụ đại sư? Tiểu nữ có một yêu cầu quá đáng, ta có khúc mắc trong lòng khó giải, muốn mời Như Vụ đại sư chỉ điểm một chút, Mộc cô nương có thể thay ta thông truyền hay không?" Dứt lời dịu dàng cúi đầu, đôi mắt rưng rưng như muốn khóc nhìn Mạc Hi. Khó trách thế nhân có câu khó nhất là tiêu thụ mỹ nhân ân. Mạc Hi cảm thấy nếu mình không đáp ứng vậy thật sự là thương thiên hại lí tội ác tày trời. Thì ra vị bát tiểu thư này lại coi Như Vụ là mục sư để sám hối.
Không ngờ Như Vụ này nghe nói bát tiểu thư của Lăng gia cầu kiến, ngược lại còn làm giá, nói không muốn cùng nữ tử khuê các nhà phú quý nói chuyện, đơn giản chỉ là chút nhi nữ tình trường sầu ly biệt, rất không thú vị.
Như Vụ người này cao ngạo có thừa, bình thường không cùng người kết giao, Mạc Hi cũng không miễn cưỡng, lại nhân cơ hội đưa ra yêu cầu muốn xem Tàng Kinh Lâu. Nàng biết rõ mưu kế lui một bước để tiến hai bước, đối phương vừa mới cự tuyệt một yêu cầu của mình, ngay sau đó sẽ không tiện cự tuyệt điều thứ hai.
Quả nhiên, Như Vụ đáp ứng.
Ăn xong bữa chay, liền được một chú tiểu trong chùa dẫn đến trước Tàng Kinh Các. Bát tiểu thư vì cầu kiến đại sư bất thành khó tránh khỏi có chút suy sụp, cũng không nói với Mạc Hi câu nào. Mạc Hi không nghĩ nhiều. Chỉ hứng trí bừng bừng quan sát các bảo vật trong Tàng Kinh Các.
Tàng Kinh Các có chừng bốn trăm món đồ vật, thư họa, trong đó đủ loại cực phẩm trân quý, như Đôn Hoàng tả kinh** đời Đường, Lôi Phong tháp kinh quyển, bản chép tay của Đổng Kỳ Xương. Trong đó trân quý nhất là Đôn Hoàng tả kinh đời Đường có thể ngược dòng đến những năm Đại Đường Trinh Quán. Ngoài ra còn có rất nhiều pháp khí mà phương trượng các đời sử dụng. Rất nhiều món trân quý Mạc Hi đã thấy ở hiện đại, như của Đổng Kỳ Xương, không khỏi sinh ra cảm giác khó hiểu.
** Đôn Hoàng tả kinh là một bộ cổ văn của Trung Quốc, nó thể hiện trình độ thư pháp tương đối cao của người Đường, là một tư liệu hiện vật hiếm có giúp các chuyên gia hiểu rõ thêm về kinh văn và thư pháp đời Đường.
Ra khỏi Tàng Kinh Các dùng bữa tối, đã đến giờ làm vãn khóa (tụng kinh vào cuối ngày).
Đại điện gõ chuông báo. Mỗi mười lần gõ sẽ ngừng một lát. Sau khi gõ qua ba mươi lần, tăng nhân bắt đầu tuần tự vào điện lễ Phật. Sau khi chuông vang lần thứ bốn mươi, năm mươi, tăng chúng lục tục đến đông đủ, vãn điện khóa tụng bắt đầu.
Mạc Hi vốn không muốn đi, nhưng bát tiểu thư nói mình nghiệp chướng nặng nề, phải tụng kinh sám hối, Mạc Hi bất đắc dĩ chỉ đành cùng đến đại điện.
Vãn điện có tất cả ba giờ tụng niệm:
Giờ tụng niệm đầu tiên là vì lễ Phật, niệm , chuyển động quanh phật, trở về vị trí cũ, biểu thị ý nguyện khẩn cầu được vãng sinh đến thế giới tây phương cực lạc.
Giờ tụng niệm thứ hai là cúng bái tám mươi tám vị phật còn lại, niệm . Tám mươi tám vị phật gồm năm mươi ba phật thêm ba mươi lăm phật. Tên năm mươi ba phật có trong , là phật trong thế giới Ta Bà ở quá khứ; tên ba mươi lăm vị như lai trong , là phật trong thế giới thập phương hiện tại. Tám mươi tám phật này đều có thể vì chúng sinh tác thiên hối chủ, chúng sinh có thể thông qua đó mà bày tỏ ý nguyện hối cải về những tội ác đã phạm. cũng xuất phát từ . Sám hối, giản lược từ một ngàn chữ của Phạn văn sám ma, hối là dịch nghĩa của thiên ma, tức là thừa nhận sai lầm với người nào đó, mong được khoan dung tha thứ. Cũng có thể giải thích là tiêu tan nghiệp chướng, không tạo ra quả đắng trong tương lai. Theo quy định của người xưa, niệm <đại sám hối văn> phải lạy một trăm lẻ tám lần, Mạc Hi cảm thấy so với hiện đại quỳ tụng mà không lễ bái còn long trọng trang nghiêm hơn nhiều.
Mạc Hi cùng bát tiểu thư tham dự toàn bộ quá trình, chỉ là hai người không tiện lộ diện, liền cùng các tăng nhân cách một bức tường tụng kinh. Tiếng tụng kinh của hơn ngàn người nghe vào tai thực sự là chấn động. Bát tiểu thư nhắm chặt hai mắt, quỳ trên đệm quỳ, thành kính tụng niệm.
Giờ tụng kinh thứ ba chính là niệm , cũng lấy một ít ngọ trai mỗi ngày cho quỷ đói, sau khi ngâm nga và sám hối thì ban ơn cho U Minh. Quỷ đói được cho ăn bên phải cửa điện, phương trượng Trí Thanh tự mình chủ trì thí thực (bố thí thức ăn). Mạc Hi âm thầm phỉ nhổ, những hòa thượng này kỳ thật cũng là treo đầu dê bán thịt chó, bản thân họ cũng không tin thuyết U Minh, nếu không sao lại đợi thí thực xong, đem những thức ăn bỏ đi mà U Minh đã dùng, phơi nắng rồi đưa "Sạn Phạn Lâu" tích trữ cơm thừa trong chùa, gom góp cả năm, đến mùng tám tháng chạp nấu thành cháo mồng tám tháng chạp phân tặng tín đồ.
Xong vãn khóa, hai người cùng về Tùng Vụ Viện ngủ.
Hôm sau, Vân Tê Trúc Kính.
Vân Tê Trúc Kính ở phía tây nam Tây Hồ, bờ bắc sông Tiền Đường, trong Vân Tê Ổ (Ổ là chỗ trũng xuống còn xung quanh thì cao) trên núi Ngũ Vân. Tương truyền trên núi Ngũ Vân có mây ngũ sắc, thường bay tập trung nơi trũng, lâu ngày không tan, nên gọi là "Vân Tê" (tê là dừng lại, vân tê là mây ngừng lại). Nơi đây rừng trúc đầy sườn núi, ôm trọn cả con đường mòn.
Mạc Hi thích nhất là hai mùa thu đông.
Trước lá vàng quấn quanh, cổ thụ yêu thầm;
Sau rừng vắng tĩnh lặng, chim bay mổ tuyết.
Bóng xanh che trời, khe nhỏ nuốt suối.
Mạc Hi không tiện luyện võ trong chùa, liền nhân lúc còn sương sớm vào rừng trúc tập kiếm.
Vào ở chùa, mỗi khi không có chuyện gì làm, liền nghiên cứu bản Như Vụ cho nàng, không ngờ phát hiện phật lý cùng kiếm ý có thể kết hợp vào nhau. Tâm cảnh lại nâng cao một bậc, có thể nói là chuyện vui ngoài ý muốn.
Tỷ như đoạn này:
Bấy giờ, Tu Bồ Đề bạch phật: Thưa thế tôn! Kinh này tên gì? Chúng con cần phải ghi nhớ thế nào? Phật bảo Tu Bồ Đề: Kinh này tên là Kim cương Bát nhã Ba la mật, hãy nhớ tên kinh này như thế. Tại sao như vậy? Tu Bồ Đề! Phật nói Bát nhã Ba la mật, tức chẳng phải Bát nhã Ba la mật, đó mới là Bát nhã Ba la mật.
Thuyết tu hành nói:
Tinh thần của kinh, nằm trong tên kinh, do nó làm chủ. Kim cương là bản thể bất động, không bị cảnh bên ngoài làm lay chuyển; Bát nhã là sự tuyệt diệu của trí tuệ, biểu hiện trong cuộc sống; Ba La Mật là hoàn thành sự việc, thế nên muốn tinh tiến phải hoàn thành mỗi một chuyện. Cũng không câu nệ cách trong Kim cương Bát nhã Ba la mật, mới có thể dùng tốt.
Này cùng với kiếm ý của : tâm động thân động, kiếm tùy ý chuyển, là đạo lý giống nhau.
Bỗng nhiên cảm giác được có người ở bên suối xa xa nhìn trộm nàng luyện kiếm, không chút thay đổi lại luyện một chiêu, thu thế, mũi chân khẽ điểm, tung người đạp trúc mà đi, cực nhanh lao về phía người đó ẩn thân. Nàng vừa rơi xuống, cũng thuận thế, mỗi khi nhảy lên đều mượn phản lực của trúc, này so với đi lại ngày thường vẫn nhanh hơn ba phần.
Người tới xoay chuyển cực nhanh, giống như không muốn cùng nàng giao thủ, xoay người bay tới mép nước, nhún một cái, nhảy vào thác nước mười trượng, nương theo lực chảy của dòng nước, nhắm thẳng vào sâu trong hàn đàm.
Mạc Hi đuổi không kịp, đành phải từ bỏ.
Thân pháp người này, vô cùng quỷ dị, dường như đang dịch chuyển trong chớp mắt. Bằng thị lực của nàng cũng nhìn không ra lộ số khinh công.
Nhất thời không còn tâm trí luyện nữa, lại sắp đến giờ tụng kinh, sợ bát tiểu thư đi tìm, liền lên đường về chùa.
Dùng xong điểm tâm, bát tiểu thư mời nàng cùng đi Hoa Nghiêm Điện bái phật.
Trở ra cửa điện, liền gặp gỡ chú tiểu ghi chép công đức (ghi số tiền người ta quyên cúng cho chùa), không thể không bỏ ra chút tiền dầu thơm (dầu thơm đốt đèn trong chùa).
Mạc Hi tuyệt bút vung lên, "mười lượng" bạc, ký tên mình "Mộc thị." May mắn chữ mộc giản phồn như nhau (ngày xưa người Trung Quốc dùng chữ phồn thể, ngày nay dùng giản thể, là dạng chữ rút gọn), nếu thay đổi chữ khác, nàng cũng chỉ có thể ký chữ giản thể như gà bới. Khiến nàng oán niệm sâu đậm là nữ tử cổ đại không thể đưa tên mình ra, phóng mắt nhìn lại, trên trang giấy đều là gì gì đó thị. Nhưng mà một thích khách như nàng, không thể lấy tên mình để dương danh lập vạn, cũng không sao.
Khi bát tiểu thư cầm bút kí tên, cây quạt giấy nan trúc cầm trên tay không cẩn thận rơi trên đất, Mạc Hi khom người thay nàng nhặt lên. Mặt quạt không nhìn rõ, nhưng cánh quạt thật là tinh tế, hợp lại thành một đóa Mặc phù dung vươn cao. Bát tiểu thư nhận lấy, cẩn thận phủi bụi bặm trên đó. Mặc Phù cười nói: "Đa tạ Mộc cô nương. Tiểu thư chúng tôi thích nhất là cây quạt này. Ngay cả tên nô tì cũng vì nó mà sửa lại. Mặt quạt này là dùng lụa màu bạc độc nhất vô nhị của Bích Lạc Hiên làm thành, là do Đỗ công tử tự mình tìm được. Tiểu thư lại mời người vẽ tranh đề tự mới." Bát tiểu thư khiển trách một tiếng: "Ngươi đừng lắm miệng." Mạc Hi cười đáp: "Không sao. Tiện tay mà thôi."
Bát tiểu thư vô cùng hào phóng, ra tay là một trăm lượng. Chú tiểu cười đến thấy răng không thấy mắt, nịnh hót: "Nữ thí chủ hôm qua đã quyên rất nhiều, hôm nay lại quyên, có thể thấy được một lòng hướng phật, thiện chí giúp người, kì tâm chân thành." Có thể thấy lúc hai người tự dùng cơm ngày hôm qua bát tiểu thư đã từng tới Hoa Nghiêm Điện. Bát tiểu thư cũng không nhiều lời, chỉ gật gật đầu, kéo Mặc Phù đi.
Trở lại Tùng Vụ Viện, chú tiểu đưa tới một cái bình sứ nhỏ màu xanh ngọc đáy vẽ hoa ngọc lan, không nói được một lời đã đi. Cái lọ có thể bỏ túi, cao khoảng một lóng tay, vừa mở bình ra, một mùi rượu ngào ngạt thanh thuần xông vào mũi, màu nước trong suốt, uống một chút, hương vị nhẹ nhàng thanh khiết, ngọt mà không ngấy, vị thật tốt. Đúng là rượu hoa quế lúc Mạc Hi chơi thuyền Tây Hồ muốn uống. Không cần phải nói, Như Vụ người này nhưỡng rượu không phải là ngày một ngày hai. Mạc Hi uống một mạch hết sạch, rất là mãn nguyện. Thầm mắng: tên này quả nhiên là một tay ủ rượu ngon. Cũng là quỷ hẹp hòi, có câu người thấy có phần, hắn lại chỉ đưa tới chút xíu như vậy. Sao có thể để hắn giấu riêng chứ. Liền quyết định đêm nay đi tìm hắn, bất kể dùng cách gì nhất định phải uống cho đã nghiền.
Dù đã có người sắp xếp, bát tiểu thư vẫn tự mình chuẩn bị trang phục. Nhưng mà, chùa miếu không thể so với trong phủ, quần áo tụng kinh lễ Phật không thể quá mức sặc sỡ. Vị bát tiểu thư này cũng là người thành tâm, xiêm y chỉ mang theo hai rương. Theo quan sát của Mạc Hi, nói là trắng mộc mạc, nhưng mỗi bộ đều có thể so với nghê thường vũ y. Đừng nói gì khác, chỉ riêng bộ váy lụa mỏng từ màu da trời chuyển dần sang màu khói, giống như một vết mực đậm từ từ loang dần, tới mép váy liền nhạt đến không nhìn rõ, cổ áo ống tay áo đều dùng chỉ bạc thêu hai vòng mây, lúc cử động quả thật là mỗi bước nở một đóa hoa, hoa khai đạm mặc ngân.
Bên này Lăng phủ gà bay chó sủa chuẩn bị hành trang. Bên kia Mạc Hi trực tiếp đi cửa sau tới tìm Như Vụ.
Đến vừa lúc yêu tăng này đang ở rừng trúc sau núi tự mình nhưỡng rượu. Tay áo xắn cao, chân mang hài cỏ, đang cầm một cái chén sứ thanh hoa lớn có hình cá chép cùng màu múc nước trong vại. Gió lướt qua, rừng trúc xanh ngắt phía sau cùng động, như sóng biếc cuồn cuộn, nổi bật lên tăng bào tuyết trắng như mây bay của y, như muốn mượn gió mà trở lại. Khá lắm yêu tăng phong hoa tuyệt đại!
Mạc Hi lập tức vạch trần y không tuân thủ thanh quy giới luật.
Như Vụ cũng không ngẩng đầu lên, nói: "Muốn khiến tất cả người đời tin tưởng, dùng cách cũ chưa hẳn là đúng."
Mạc Hi không buông tha nói: "Người ta uống rượu, có thể thay phật dát vàng. Có thể đưa vô số cây gỗ lớn từ trong giếng ra ngoài, huynh uống rượu, cả nước giếng cũng không múc được, sao có thể học người ta."
Lời nói sắc bén của hai người đều trích dẫn một câu trong <Ấn Quang pháp sư phục bàng khế trinh thư>, đại ý là Ấn Quang pháp sư nói Tế Công là thánh nhân thần thông quảng đại có thể dùng rượu thịt qua ruột mà trong lòng vẫn nghĩ đến cách truyền bá Phật hiệu của Phật tổ, nhưng ngộ cảnh phùng duyên, không phải ai cũng đạt đến cảnh giới phật pháp đó. Tế Công uống rượu, có thể từ trong giếng nước lấy ra gỗ*, người bình thường có thể làm được sao? Việc này không phải tùy tiện có thể học được. Vì thế khuyên răn người tuyên truyền Phật hiệu phải tuân theo cấm giới của Phật. Nếu không thuận theo Phật chế (quy định của cửa Phật), tức là ma loại.
* Điển tích Tế Công lấy gỗ từ trong giếng: Tương truyền Tế Công là một trong mười tám vị La Hán giáng thế, ông tu ở chùa Linh Ẩn nhưng sau đó ông bị buộc phải bỏ chùa bởi vì trụ trì ghen tị với quyền năng của ông. Sau đó ông chuyển đến chùa Tịnh Từ. Có lần chùa bị cháy mà ko có gỗ để xây lại, trụ trì rất lo lắng. Vì thế Tế Công đã đến nhà một địa chủ ở núi Nga Mi dùng kế quyên được một trăm cây gỗ lớn rồi thả trôi trên sông Trường Giang, không ngờ lại bị quan binh đòi thuế, ông bèn làm cho số gỗ đó chìm xuống sông biến mất. Về đến chùa, ông dẫn trụ trì ra giếng nước trước bếp, gỗ từ giếng cứ trồi lên, khi vớt được sáu mươi cây, trụ trì thấy đã đủ số, gỗ liền không trồi lên nữa.
Như Vụ để bát qua một bên, cũng không giải thích, chỉ hỏi nàng có chuyện gì.
Mạc Hi chỉ nói có nữ quyến muốn vào ở chùa lễ Phật, có thể thuận tiện an trí tại nơi thanh tịnh một chút hay không.
Như Vụ sảng khoái đáp ứng. Vì thế Tùng Vụ Viện trong chùa bình thường không mở ra đón khách hành hương liền được chú tiểu vẩy nước dọn dẹp lại hoàn toàn.
Bát tiểu thư cũng biết Tùng Vụ Viện này vì cách Tàng Kinh Các quá gần, nếu mở ra đón khách hành hương, sẽ không dễ phòng trộm, nên quanh năm đều khóa. Liền tò mò hỏi: "Nơi thanh u như thế, nước chảy róc rách, chim hót líu lo, không biết Mộc cô nương quen biết người nào trong chùa, có thể được vào ở?"
"Là Như Vụ đại sư." Mạc Hi từng cùng Như Vụ đốt đèn luận giao cả đêm, tăng lữ trong chùa đều biết.
Bát tiểu thư mắt sáng lên, nói: "Mộc cô nương quen Như Vụ đại sư? Tiểu nữ có một yêu cầu quá đáng, ta có khúc mắc trong lòng khó giải, muốn mời Như Vụ đại sư chỉ điểm một chút, Mộc cô nương có thể thay ta thông truyền hay không?" Dứt lời dịu dàng cúi đầu, đôi mắt rưng rưng như muốn khóc nhìn Mạc Hi. Khó trách thế nhân có câu khó nhất là tiêu thụ mỹ nhân ân. Mạc Hi cảm thấy nếu mình không đáp ứng vậy thật sự là thương thiên hại lí tội ác tày trời. Thì ra vị bát tiểu thư này lại coi Như Vụ là mục sư để sám hối.
Không ngờ Như Vụ này nghe nói bát tiểu thư của Lăng gia cầu kiến, ngược lại còn làm giá, nói không muốn cùng nữ tử khuê các nhà phú quý nói chuyện, đơn giản chỉ là chút nhi nữ tình trường sầu ly biệt, rất không thú vị.
Như Vụ người này cao ngạo có thừa, bình thường không cùng người kết giao, Mạc Hi cũng không miễn cưỡng, lại nhân cơ hội đưa ra yêu cầu muốn xem Tàng Kinh Lâu. Nàng biết rõ mưu kế lui một bước để tiến hai bước, đối phương vừa mới cự tuyệt một yêu cầu của mình, ngay sau đó sẽ không tiện cự tuyệt điều thứ hai.
Quả nhiên, Như Vụ đáp ứng.
Ăn xong bữa chay, liền được một chú tiểu trong chùa dẫn đến trước Tàng Kinh Các. Bát tiểu thư vì cầu kiến đại sư bất thành khó tránh khỏi có chút suy sụp, cũng không nói với Mạc Hi câu nào. Mạc Hi không nghĩ nhiều. Chỉ hứng trí bừng bừng quan sát các bảo vật trong Tàng Kinh Các.
Tàng Kinh Các có chừng bốn trăm món đồ vật, thư họa, trong đó đủ loại cực phẩm trân quý, như Đôn Hoàng tả kinh** đời Đường, Lôi Phong tháp kinh quyển, bản chép tay của Đổng Kỳ Xương. Trong đó trân quý nhất là Đôn Hoàng tả kinh đời Đường có thể ngược dòng đến những năm Đại Đường Trinh Quán. Ngoài ra còn có rất nhiều pháp khí mà phương trượng các đời sử dụng. Rất nhiều món trân quý Mạc Hi đã thấy ở hiện đại, như của Đổng Kỳ Xương, không khỏi sinh ra cảm giác khó hiểu.
** Đôn Hoàng tả kinh là một bộ cổ văn của Trung Quốc, nó thể hiện trình độ thư pháp tương đối cao của người Đường, là một tư liệu hiện vật hiếm có giúp các chuyên gia hiểu rõ thêm về kinh văn và thư pháp đời Đường.
Ra khỏi Tàng Kinh Các dùng bữa tối, đã đến giờ làm vãn khóa (tụng kinh vào cuối ngày).
Đại điện gõ chuông báo. Mỗi mười lần gõ sẽ ngừng một lát. Sau khi gõ qua ba mươi lần, tăng nhân bắt đầu tuần tự vào điện lễ Phật. Sau khi chuông vang lần thứ bốn mươi, năm mươi, tăng chúng lục tục đến đông đủ, vãn điện khóa tụng bắt đầu.
Mạc Hi vốn không muốn đi, nhưng bát tiểu thư nói mình nghiệp chướng nặng nề, phải tụng kinh sám hối, Mạc Hi bất đắc dĩ chỉ đành cùng đến đại điện.
Vãn điện có tất cả ba giờ tụng niệm:
Giờ tụng niệm đầu tiên là vì lễ Phật, niệm , chuyển động quanh phật, trở về vị trí cũ, biểu thị ý nguyện khẩn cầu được vãng sinh đến thế giới tây phương cực lạc.
Giờ tụng niệm thứ hai là cúng bái tám mươi tám vị phật còn lại, niệm . Tám mươi tám vị phật gồm năm mươi ba phật thêm ba mươi lăm phật. Tên năm mươi ba phật có trong , là phật trong thế giới Ta Bà ở quá khứ; tên ba mươi lăm vị như lai trong , là phật trong thế giới thập phương hiện tại. Tám mươi tám phật này đều có thể vì chúng sinh tác thiên hối chủ, chúng sinh có thể thông qua đó mà bày tỏ ý nguyện hối cải về những tội ác đã phạm. cũng xuất phát từ . Sám hối, giản lược từ một ngàn chữ của Phạn văn sám ma, hối là dịch nghĩa của thiên ma, tức là thừa nhận sai lầm với người nào đó, mong được khoan dung tha thứ. Cũng có thể giải thích là tiêu tan nghiệp chướng, không tạo ra quả đắng trong tương lai. Theo quy định của người xưa, niệm <đại sám hối văn> phải lạy một trăm lẻ tám lần, Mạc Hi cảm thấy so với hiện đại quỳ tụng mà không lễ bái còn long trọng trang nghiêm hơn nhiều.
Mạc Hi cùng bát tiểu thư tham dự toàn bộ quá trình, chỉ là hai người không tiện lộ diện, liền cùng các tăng nhân cách một bức tường tụng kinh. Tiếng tụng kinh của hơn ngàn người nghe vào tai thực sự là chấn động. Bát tiểu thư nhắm chặt hai mắt, quỳ trên đệm quỳ, thành kính tụng niệm.
Giờ tụng kinh thứ ba chính là niệm , cũng lấy một ít ngọ trai mỗi ngày cho quỷ đói, sau khi ngâm nga và sám hối thì ban ơn cho U Minh. Quỷ đói được cho ăn bên phải cửa điện, phương trượng Trí Thanh tự mình chủ trì thí thực (bố thí thức ăn). Mạc Hi âm thầm phỉ nhổ, những hòa thượng này kỳ thật cũng là treo đầu dê bán thịt chó, bản thân họ cũng không tin thuyết U Minh, nếu không sao lại đợi thí thực xong, đem những thức ăn bỏ đi mà U Minh đã dùng, phơi nắng rồi đưa "Sạn Phạn Lâu" tích trữ cơm thừa trong chùa, gom góp cả năm, đến mùng tám tháng chạp nấu thành cháo mồng tám tháng chạp phân tặng tín đồ.
Xong vãn khóa, hai người cùng về Tùng Vụ Viện ngủ.
Hôm sau, Vân Tê Trúc Kính.
Vân Tê Trúc Kính ở phía tây nam Tây Hồ, bờ bắc sông Tiền Đường, trong Vân Tê Ổ (Ổ là chỗ trũng xuống còn xung quanh thì cao) trên núi Ngũ Vân. Tương truyền trên núi Ngũ Vân có mây ngũ sắc, thường bay tập trung nơi trũng, lâu ngày không tan, nên gọi là "Vân Tê" (tê là dừng lại, vân tê là mây ngừng lại). Nơi đây rừng trúc đầy sườn núi, ôm trọn cả con đường mòn.
Mạc Hi thích nhất là hai mùa thu đông.
Trước lá vàng quấn quanh, cổ thụ yêu thầm;
Sau rừng vắng tĩnh lặng, chim bay mổ tuyết.
Bóng xanh che trời, khe nhỏ nuốt suối.
Mạc Hi không tiện luyện võ trong chùa, liền nhân lúc còn sương sớm vào rừng trúc tập kiếm.
Vào ở chùa, mỗi khi không có chuyện gì làm, liền nghiên cứu bản Như Vụ cho nàng, không ngờ phát hiện phật lý cùng kiếm ý có thể kết hợp vào nhau. Tâm cảnh lại nâng cao một bậc, có thể nói là chuyện vui ngoài ý muốn.
Tỷ như đoạn này:
Bấy giờ, Tu Bồ Đề bạch phật: Thưa thế tôn! Kinh này tên gì? Chúng con cần phải ghi nhớ thế nào? Phật bảo Tu Bồ Đề: Kinh này tên là Kim cương Bát nhã Ba la mật, hãy nhớ tên kinh này như thế. Tại sao như vậy? Tu Bồ Đề! Phật nói Bát nhã Ba la mật, tức chẳng phải Bát nhã Ba la mật, đó mới là Bát nhã Ba la mật.
Thuyết tu hành nói:
Tinh thần của kinh, nằm trong tên kinh, do nó làm chủ. Kim cương là bản thể bất động, không bị cảnh bên ngoài làm lay chuyển; Bát nhã là sự tuyệt diệu của trí tuệ, biểu hiện trong cuộc sống; Ba La Mật là hoàn thành sự việc, thế nên muốn tinh tiến phải hoàn thành mỗi một chuyện. Cũng không câu nệ cách trong Kim cương Bát nhã Ba la mật, mới có thể dùng tốt.
Này cùng với kiếm ý của : tâm động thân động, kiếm tùy ý chuyển, là đạo lý giống nhau.
Bỗng nhiên cảm giác được có người ở bên suối xa xa nhìn trộm nàng luyện kiếm, không chút thay đổi lại luyện một chiêu, thu thế, mũi chân khẽ điểm, tung người đạp trúc mà đi, cực nhanh lao về phía người đó ẩn thân. Nàng vừa rơi xuống, cũng thuận thế, mỗi khi nhảy lên đều mượn phản lực của trúc, này so với đi lại ngày thường vẫn nhanh hơn ba phần.
Người tới xoay chuyển cực nhanh, giống như không muốn cùng nàng giao thủ, xoay người bay tới mép nước, nhún một cái, nhảy vào thác nước mười trượng, nương theo lực chảy của dòng nước, nhắm thẳng vào sâu trong hàn đàm.
Mạc Hi đuổi không kịp, đành phải từ bỏ.
Thân pháp người này, vô cùng quỷ dị, dường như đang dịch chuyển trong chớp mắt. Bằng thị lực của nàng cũng nhìn không ra lộ số khinh công.
Nhất thời không còn tâm trí luyện nữa, lại sắp đến giờ tụng kinh, sợ bát tiểu thư đi tìm, liền lên đường về chùa.
Dùng xong điểm tâm, bát tiểu thư mời nàng cùng đi Hoa Nghiêm Điện bái phật.
Trở ra cửa điện, liền gặp gỡ chú tiểu ghi chép công đức (ghi số tiền người ta quyên cúng cho chùa), không thể không bỏ ra chút tiền dầu thơm (dầu thơm đốt đèn trong chùa).
Mạc Hi tuyệt bút vung lên, "mười lượng" bạc, ký tên mình "Mộc thị." May mắn chữ mộc giản phồn như nhau (ngày xưa người Trung Quốc dùng chữ phồn thể, ngày nay dùng giản thể, là dạng chữ rút gọn), nếu thay đổi chữ khác, nàng cũng chỉ có thể ký chữ giản thể như gà bới. Khiến nàng oán niệm sâu đậm là nữ tử cổ đại không thể đưa tên mình ra, phóng mắt nhìn lại, trên trang giấy đều là gì gì đó thị. Nhưng mà một thích khách như nàng, không thể lấy tên mình để dương danh lập vạn, cũng không sao.
Khi bát tiểu thư cầm bút kí tên, cây quạt giấy nan trúc cầm trên tay không cẩn thận rơi trên đất, Mạc Hi khom người thay nàng nhặt lên. Mặt quạt không nhìn rõ, nhưng cánh quạt thật là tinh tế, hợp lại thành một đóa Mặc phù dung vươn cao. Bát tiểu thư nhận lấy, cẩn thận phủi bụi bặm trên đó. Mặc Phù cười nói: "Đa tạ Mộc cô nương. Tiểu thư chúng tôi thích nhất là cây quạt này. Ngay cả tên nô tì cũng vì nó mà sửa lại. Mặt quạt này là dùng lụa màu bạc độc nhất vô nhị của Bích Lạc Hiên làm thành, là do Đỗ công tử tự mình tìm được. Tiểu thư lại mời người vẽ tranh đề tự mới." Bát tiểu thư khiển trách một tiếng: "Ngươi đừng lắm miệng." Mạc Hi cười đáp: "Không sao. Tiện tay mà thôi."
Bát tiểu thư vô cùng hào phóng, ra tay là một trăm lượng. Chú tiểu cười đến thấy răng không thấy mắt, nịnh hót: "Nữ thí chủ hôm qua đã quyên rất nhiều, hôm nay lại quyên, có thể thấy được một lòng hướng phật, thiện chí giúp người, kì tâm chân thành." Có thể thấy lúc hai người tự dùng cơm ngày hôm qua bát tiểu thư đã từng tới Hoa Nghiêm Điện. Bát tiểu thư cũng không nhiều lời, chỉ gật gật đầu, kéo Mặc Phù đi.
Trở lại Tùng Vụ Viện, chú tiểu đưa tới một cái bình sứ nhỏ màu xanh ngọc đáy vẽ hoa ngọc lan, không nói được một lời đã đi. Cái lọ có thể bỏ túi, cao khoảng một lóng tay, vừa mở bình ra, một mùi rượu ngào ngạt thanh thuần xông vào mũi, màu nước trong suốt, uống một chút, hương vị nhẹ nhàng thanh khiết, ngọt mà không ngấy, vị thật tốt. Đúng là rượu hoa quế lúc Mạc Hi chơi thuyền Tây Hồ muốn uống. Không cần phải nói, Như Vụ người này nhưỡng rượu không phải là ngày một ngày hai. Mạc Hi uống một mạch hết sạch, rất là mãn nguyện. Thầm mắng: tên này quả nhiên là một tay ủ rượu ngon. Cũng là quỷ hẹp hòi, có câu người thấy có phần, hắn lại chỉ đưa tới chút xíu như vậy. Sao có thể để hắn giấu riêng chứ. Liền quyết định đêm nay đi tìm hắn, bất kể dùng cách gì nhất định phải uống cho đã nghiền.
/68
|