Hôm sau. Đột nhiên tuyết rơi nhỏ lại. Nắng sớm nhàn nhạt.
Mạc Hi rửa mặt xong, xuống lầu gọi một chén cháo khoai lang, một cái bánh bao tể thái (tể thái là một loại cỏ, còn non có thể ăn được, dùng làm thuốc giải nhiệt, cầm máu), hai cái trứng trà ngũ vị hương (trứng luộc trong nước trà). Chỗ nổi bật ở quán trọ đã dán bố cáo: hôm nay bến đò đã mở cửa. Hi vọng các vị khách quan đừng bỏ lỡ thời gian.
Ăn xong điểm tâm cách thời gian đò khởi hành không lâu lắm. Liền đem theo bao vải nhỏ của nàng trả tiền rồi đi.
Hai mươi năm trước bến đò Phong Lăng cũng không giống như hiện tại chỉ là một bến đò, mà còn là nơi giao lưu buôn bán của thành trấn. Mạc Hi chầm chậm bước đi trong thành cổ hoang sơ. Từ bố cục trước cửa hàng sau phố phường và kiến trúc trên các cửa tiệm mà xem, nơi này trước đây nhất định vô cùng phồn hoa. Tuyết trắng phủ ngói, trên những căn lầu hoang đầy tuyết ngẫu nhiên lộ ra một góc sơn đỏ loang lổ, càng hiện rõ sự tĩnh mịch thê lương.
Đi qua một cây cầu đá có đề hai chữ "Điệp trướng" (núi non trùng điệp), tiếp tục đi một nén hương nữa là một cây cầu hình vòm có đề hai chữ "Chẩm giang" (gối lên sông). Mạc Hi nhìn dãy núi phía sau, lại nhìn bậc thang xuống dưới ở đằng trước, một dãy cửa hàng nối tiếp con đê đá trên sông, tỉnh ngộ: chỉ bốn chữ này đã nói hết kết cấu của bến đò Phong Lăng.
Nàng còn chưa kịp tán thưởng cổ nhân sử dụng văn tự xuất thần nhập hóa, liền thấy trong tuyết trắng một bóng người mặc áo thu màu sẫm, không khỏi âm thầm thở dài một tiếng: âm hồn không tan.
Mạc Hi một đường đi tới vẫn chưa hiển lộ võ công, có lẽ hắn nghe thấy tiếng bước chân, quay đầu, chớp mắt một cái liền đến trước mặt nàng, chưa nói đã cười. Nụ cười kia trong nắng sớm nhàn nhạt, giữa băng tuyết, lại có cảm giác đất hoang nở hoa. Một lát sau mới nói: "Thật xin lỗi, ta thức quá sớm, không đành lòng quấy nhiễu giấc ngủ của cô, nên không gọi cô cùng đi." Giọng nói ôn hòa hiền hậu, giống như nói chuyện cùng bạn bè.
Mạc Hi trong lòng thầm mắng: vô nghĩa, ta có thể không nghe thấy động tĩnh cách vách sao... Cô nương ta không sợ ngươi đi xa, chỉ sợ ngươi đi không đủ xa. Trên mặt lại bất động thanh sắc nói: "Là ta thức trễ." Trong lòng lại tiếp một câu: đáng tiếc còn chưa đủ trễ.
Soái ca ‘tự nhiên’ nghe nàng trả lời như thế, ngược lại ngẩn người, nhưng chốc lát liền khôi phục nụ cười, hỏi: "Cô nương có phải lần đầu tiên đến đây qua sông hay không?"
"Đúng thế."
Sau đó hắn lại lít rít líu ríu nói một vài thứ không có dinh dưỡng (những câu chuyện nhạt nhẽo, không quan trọng), Mạc Hi chỉ cảm thấy đi cùng người này giống như đặt mình trong đàn quạ đen. Kỳ thật hắn nói về phong cảnh, nhân tình một số nơi rất là thú vị, chỉ là lộn xộn chút. Hơn nữa trong lời nói nghe ra là một người đọc rộng nhớ lâu, đi lại nhiều nơi. Chỉ là Mạc Hi hành tẩu giang hồ một thân một mình đã quen, liền có chút không kiên nhẫn.
Một đường kiềm nén xúc động muốn trực tiếp đánh bay hắn. Thật vất vả qua khỏi gác chuông, sắp đến bến đò.
"Nơi này được gọi là 'Quá Nhai tháp'. Tháp chính là phật, rất nhiều người vội qua đò không kịp đi lễ Phật nơi đây, liền xây dựng tháp này thành dạng rỗng, mọi người đi qua dưới tháp, liền tính đã lễ Phật, có thể phù hộ bình an. Trong tháp vốn có treo một thanh kiếm, đó là một trong thập đại danh kiếm Thừa Ảnh."
Mạc Hi nghe đến đây, hai mắt sáng ngời, cảm thấy hứng thú hỏi: "Vậy sau đó thế nào, thanh kiếm này vì sao lại đổi chỗ?"
Soái ca ‘tự nhiên’ thấy nàng hứng thú, đương nhiên càng ra sức nói: "Sau khi bến đò Phong Lăng xây xong, trăm năm nay bởi vì có đông khách qua đường, dần dần trở thành nơi hết sức phồn hoa. Những mảnh đất hai bên đê đá, lại càng tấc đất tấc vàng, cũng thành nơi tụ tập buôn bán khi đó. Quán trọ, tiệm trà, cửa hàng, lần lượt mọc lên, nằm dọc theo thềm đá. Tất cả hàng hóa của những thôn trang gần đây đều đem đến buôn bán, sầm uất có thể tưởng tượng được. Người giàu trong vùng này, tự nhiên sẽ cảm thấy đây là một khối đất phong thuỷ quý hiếm, liền nói là có rồng nằm. Nhưng sau đó mọi người lại sợ rồng trong vùng theo dòng sông mà chạy đi, vì thế ngay tại bến đò Phong Lăng tạo nên tháp này, trấn long thân. Lại treo Thừa Ảnh kiếm có thể trấn yêu trừ tà trong tháp, để uy nhiếp du long."
"Rồng là linh vật, vì sao lại dùng Thừa Ảnh có thể trấn yêu tránh tà chứ?"
"Rồng tuy là linh thú, nhưng vẫn không thay đổi được khí thế hung ác, Thừa Ảnh xưa nay được xưng là tao nhã chi kiếm, có thể hóa lệ khí (khí thế hung ác) thành tường hòa (tốt lành hài hòa)."
"Là ai đem Thừa Ảnh để vào trong tháp?"
"Là chủ nhân ngày xưa của nó, người được mệnh danh thiên tài võ học tức tiền nhiệm chưởng môn Hà Quần Thanh của Thục Sơn phái. Ngày xưa Hà Quần Thanh vì cuộc sống của bá tánh thiên hạ, chủ động dâng ra bội kiếm tùy thân cùng ông ấy gắn bó làm bạn nhiều năm."
Mạc Hi biết rõ hắn nói một nửa lưu một nửa là cố ý, lại cũng không thể không hỏi: "Vậy vì sao sau này lại lấy đi?"
"Sau đó chưởng môn Thục Sơn là Lâm Tích bỏ phái Thục Sơn, Thục Sơn như rắn mất đầu, lòng người dao động, vì chỉnh nhân tâm, chấn uy danh, Thừa Ảnh liền được Hà Quần Thanh thu hồi, truyền cho đương nhiệm chưởng môn Cù Diệu."
Mạc Hi nghe đến đây không khỏi âm thầm tự nhủ, đã là vật truyền thừa cho người đủ tư cách làm chưởng môn, Cù Diệu há lại dễ dàng đồng ý giao kiếm. Việc này còn cần suy tính kĩ hơn.
Hai người một đường trò chuyện với nhau đến bến đò.
Đợi không đến nửa canh giờ, đò liền rời bến. Cảnh sắc hai bên bờ sông thật là hùng vĩ, xa xa những ngọn núi cao hiểm trở như xuyên thẳng đến trời cao nằm cạnh dòng sông chảy thẳng rồi đột ngột đổi hướng. Bên bờ cành quỳnh cây ngọc trong suốt lóng lánh, sương đọng trên lá cây lấp lánh ánh bạc.
Vì nước sông chảy xiết, vả lại còn có băng trôi, nên thân thuyền tạo thành từ gỗ thô (gỗ nguyên cây, chỉ đục đẽo phần giữa để có chỗ ngồi) bền chắc, mặc dù so ra kém thuyền viễn dương của thời hiện đại, nhưng ở thời này cũng coi như cực lớn. Mạc Hi đứng trên sàn thuyền nhìn phong cảnh đủ rồi, không muốn đứng trong gió lạnh gào thét nữa, liền vào trong khoang thuyền. Soái ca ‘tự nhiên’ cũng đi theo vào.
Bên trong lại có một ông lão tóc trắng xóa đang kể cho mọi người nghe về truyền thuyết bến đò Phong Lăng:
"Nghề chèo đò này đò là từ đời tổ tiên của lão truyền xuống, nay ta lại truyền cho con ta. Thứ khác lão không biết, nhưng truyền thuyết về bến đò Phong Lăng này cũng có biết chút ít. Tương truyền bến đò Phong Lăng cũ có Huyết Lệ Thạch (đá máu và nước mắt) của đệ nhất tể tướng Sở Thương bổn triều. Sở Thương vốn là đại Tư Mã (hai chữ Tư Mã từ đời nhà Chu được dùng để gọi một chức quan võ coi tất cả các việc binh trong nước, tức là chức Binh bộ Thượng thư đời sau) của tiền triều Kinh, thê tử của hắn vì có dung mạo chim sa cá lặn, trong một lần cung đình có yến hội cho phép những mệnh phụ bên ngoài vào yết kiến, bị vị quốc quân đời thứ hai của tiền triều là Mộ Dung Chấp nhìn trúng, cường nạp làm phi. Nàng này tính tình cương liệt, thề chết không theo, Mộ Dung Chấp liền phái người đuổi giết Sở Thương, cho rằng nếu trượng phu nàng chết nàng sẽ thay đổi tâm ý. Sở Thương một đường đêm đi ngày trốn, cuối cùng tới sông Mân, bi phẫn rơi lệ nôn máu trên tảng đá lớn bên bờ bến đò Phong Lăng. Sau đó trải qua phong sương tuyết vũ, màu đỏ sẫm trên tảng đá này không phai. Sở Thương sau khi qua sông đã ra tây lĩnh quan, chạy trốn tới tiểu quốc Nghiệp (tên đất thời xưa, ở phía bắc An Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc) lân bang. Mấy năm sau, Sở Thương dẫn dắt Nghiệp binh phá tây lĩnh quan diệt tiền triều Kinh. Sở Thương còn quật mộ Mộ Dung Chấp, tiên thi (đánh xác chết bằng roi) ba trăm, báo mối hận đoạt vợ."
Mạc Hi âm thầm gật đầu, Nghiệp lúc trước chính là Nam triều ngày nay, quốc hiệu "Nam" là sau khi nhập quan mới sửa. Chỉ là Nghiệp vốn rất cằn cỗi, khí hậu lạnh khủng khiếp, nên sau khi nhập quan, đất cũ bị bỏ hoang. Dần dà mảnh đất này liền bị dân tộc du mục địa phương chiếm cứ thống trị. Thì ra hoàng đế tiền triều Kinh bị tiên thi là chuyện như vậy. Không cần phải nói, vị Sở phu nhân khuynh quốc khuynh thành này lại bị mang danh hồng nhan họa thủy trên lưng. Trước giờ nếu hoàng đế làm chuyện gì ngu xuẩn hoặc không có đức hạnh, từ sử quan, cho tới dân chúng, đều thích đổ lên người nữ nhân, thật sự là gán tội cho người khác.
Soái ca ‘tự nhiên’ nghe xong liền nói tiếp: "Câu chuyện này còn chưa hết. Ngày đế đô Kinh triều đạt được thành, thái tử công tử Hiểu chạy khỏi kinh thành, lại từ Phong Lăng vượt qua sông Mân, ra tây lĩnh quan, kỳ thật khi đó còn gọi tần quan, chạy đến biên cảnh Nghiệp, ẩn náu. Hậu nhân có thơ:
Quần sơn vạn hác hợp thành vi, trường kiếm đông lai nguyện dĩ vi.
Khu mã quan môn bi cố quốc, hồi đầu chiến lũy cách tà huy.
Dĩ khán giang thượng thiên phàm quá, mạc nhạ lô trung nhất diệp phi.
Diệc hữu kê minh phương đắc độ, Tần Quan tuy hiểm cánh năng xuất.
Bài thơ này nói về quá trình hắn ngàn dặm đào thoát. "Mạc nhạ lô trung nhất diệp phi" là chỉ công tử Hiểu qua sông Mẫn. "Kê minh phương đắc độ" là nói hắn vốn bị đất Nghiệp phá thành bắt làm tù binh, thái tử phi của hắn vì để hắn thuận lợi thoát đi, tự nguyện hiến thân cho Nghiệp tướng lãnh binh ngày đó, người đất Nghiệp đó liền lén thả công tử Hiểu. Công tử Hiểu trốn tới tần quan, dựa vào một mưu sĩ giả gà gáy lừa binh sĩ thủ quan mở cửa thành trước, mới có thể thuận lợi thoát khỏi truy binh xuất quan."
Mạc Hi nghe xong không khỏi có cảm giác thổn thức vô hạn, cho dù vạn dặm giang sơn này đều là nam nhi đời đời tương truyền, giang sơn thay đổi lại không thể thiếu hồng nhan dùng máu lệ thân thể đúc thành. Thầm nghĩ: Soái ca ‘tự nhiên’ om sòm thì có om sòm chút, nhưng trong bụng trữ hàng thật không ít. Ngẫu nhiên khoe chữ cũng có chút tác dụng.
Mạc Hi ngồi ở góc khoang thuyền nhắm mắt dưỡng thần. Soái ca ‘tự nhiên’ lúc này thật ra rất thức thời, trong hai canh giờ đi thuyền không hề nói tiếng nào.
Rời thuyền lên bờ. Trong thời tiết rét đậm, tuyết rơi phủ đầy núi, người võ nghệ tầm thường căn bản không thể lên Thục Sơn, càng không cần phải nói người đến bái sư học nghệ. Nên những người trên đò này đều là đi tới thôn trấn gần đó.
Trước khi đến Mạc Hi đã sớm xem bản đồ. Sau khi cập bờ chạy dài vài trăm dặm đều là rừng sâu núi thẳm, không thể tìm nơi ngủ trọ. Nếu muốn tìm chỗ an thân qua đêm như vậy trước khi trời tối nhất định phải tìm được nhà nông dân nào đó đồng ý cho ở nhờ.
Chỉ là hai người họ đã đi rất lâu, cũng sắp qua giờ cơm vẫn không thấy một luồng khói bếp nào.
Soái ca ‘tự nhiên’ đề nghị bắt chim thú hoang ăn no bụng trước rồi tính. Mạc Hi không có ý gì khác, tự đi săn hai con thỏ tuyết. Khi trở về thấy soái ca ‘tự nhiên’ đã nhóm lửa lên. Lúc này hắn cực kì có phong độ thân sĩ, chuyện kế tiếp đều không cần Mạc Hi động thủ, hắn một mình ôm lấy mọi việc.
Chỉ thấy hắn từ trong lòng lấy ra một cái bình ngọc lưu ly nhỏ cỡ lọ thuốc hít, vừa lột da thỏ ướp gia vị vào thịt, vừa nói: "Đây là muối, thìa là, tiêu đen, tỏi khô." Xát đều một vòng, liền xiên thịt thỏ vào nhánh cây nướng. Mạc Hi đối với việc hắn mang theo gia vị bên người vô cùng kính nể. Nhìn hắn động tác lưu loát có trật tự, chắc hẳn kinh nghiệm sinh tồn nơi hoang dã khá phong phú.
Chỉ chốc lát thịt đã tỏa ra mùi thơm, soái ca ‘tự nhiên’ lấy đoản kiếm tùy thân ra, cắt thịt thỏ từng miếng từng miếng đặt trong chén gỗ đưa cho Mạc Hi, nói: "Cô nương nếm thử tay nghề của ta đi." Kích thước của đoản kiếm kia cùng đoản kiếm bình thường không có gì khác, cũng là một thanh loan đao nhỏ, trên lưỡi dao có một loạt khoen thật nhỏ, trên chuôi đao màu bạc khảm trân châu cùng phỉ thúy đan xen thành một hàng. Trân châu đó đã ố vàng, nhưng vẫn không thể che lấp sự tinh xảo quý giá của đoản kiếm. Chén gỗ vết cắt vẫn còn mới tinh, xác nhận là trực tiếp khoét từ cọc gỗ nhỏ, đao công lại cực kỳ tinh tế, miệng chén vô cùng bằng phẳng, mặt chén cũng vô cùng nhẵn bóng. Đây là một thanh bảo đao chém sắt như chém bùn không thể nghi ngờ.
Ngoại trừ chén gỗ, còn tặng thêm một đôi đũa vót từ nhánh cây. Mạc Hi dùng ngón tay vuốt chiếc đũa, không ngờ một chút dằm cũng không có, thầm nghĩ: hắn làm thợ mộc nhất định không tệ.
Soái ca ‘tự nhiên’ đưa Mạc Hi bát đũa, bản thân lại không chú ý như vậy, chỉ dùng tay lấy thịt thỏ còn lại ăn.
"Huynh định đi đâu?" Mạc Hi quyết định vẫn là đi thẳng vào vấn đề sẽ tốt hơn.
Soái ca ‘tự nhiên’ cười cười, nói: "Ta đi Thục Sơn."
Mạc Hi ai thán một tiếng, trong lòng biết đá không khỏi hắn, liền không nói nửa lời. Tình hình trước mắt, nàng không sợ hắn hạ độc. Nếu hai người động thủ, tuy rằng không thắng được hắn, muốn toàn thân trở ra cũng không khó. Cho nên nàng không lo nhiều. Vả lại còn phải xem hắn muốn như thế nào nữa.
Hai người ăn no, liền muốn đi tìm nơi dừng chân cho đêm nay. Ai ngờ vừa đứng dậy liền nghe được cách đó không xa bùm một tiếng.
Mạc Hi chậm lại nửa nhịp, đi theo soái ca ‘tự nhiên’ về phía tiếng vang kia. Súng bắn chim đầu đàn (có xung dột gì thì người đi đầu sẽ bị đánh trước), có vị võ công mạnh hơn này chắn phía trước nàng, nàng vẫn là tiếp tục làm rùa đen rút đầu đi.
Là một người có dáng vẻ thợ săn, ngã bổ nhào trong tuyết. Quần áo vải bố và da thú trên người hợp lại rất có phong cách thời trang dã thú. Người này không có võ công, cho nên hai người Mạc Hi đã gần ngay trước mắt hắn cũng không phát hiện. Lại vẫn hai tay ôm đầu sợ tới mức phát run, miệng lung tung lặp lại: "Tiểu nương tử. Tha mạng a tha mạng..." Giọng nói đã bởi vì hoảng sợ cực độ mà không còn rõ ràng.
Soái ca ‘tự nhiên’ nói: "Vị tráng sĩ này, chúng tôi sẽ không thương tổn huynh, huynh không cần sợ hãi."
Mạc Hi nghe hắn gọi người thợ săn này là tráng sĩ, liền biết thằng nhãi này có chủ ý gì, nhưng cũng vui vẻ đứng ngoài.
Lúc này người thợ săn mới hơi thả lỏng tay ôm đầu, ánh mắt mở he hé, thấy soái ca ‘tự nhiên’ vừa muốn thả lỏng, giương mắt lại nhìn thấy Mạc Hi đứng phía sau hắn, theo phản xạ lập tức chôn đầu vào tuyết, trong miệng la hét: "Ngươi, ngươi cẩn thận, nàng, nàng ngay phía sau ngươi..."
Soái ca ‘tự nhiên’ lại nói: "Vị tráng sĩ này có lẽ đã có chút hiểu lầm. Vị cô nương này là bằng hữu của tại hạ, chúng tôi không có ác ý." Giọng nói của hắn ấm áp, thuần hậu, trong núi sâu yên tĩnh không một bóng chim, mơ hồ như có một loại sức mạnh làm yên lòng người.
Quả nhiên người thợ săn kia chậm rãi ngẩng đầu lên, nhìn Mạc Hi một cái, thấy nàng mới mười mấy tuổi, vẫn ăn mặc theo kiểu cô nương, liền hoàn toàn tỉnh táo lại. Chỉ là vừa thả lỏng, tay chân lại càng cảm thấy mệt mỏi, phịch một cái, nhất thời vẫn không đứng dậy được.
Soái ca ‘tự nhiên’ nhẹ nhàng nâng hắn lên, người thợ săn cuối cùng cũng đứng lên được, phủi đi tuyết đọng trên người, trên dưới đánh giá hai người trước mắt, chỉ chỉ phương hướng hai người vừa nhóm lửa, thô thanh nói: "Nơi này đã lâu chưa có người đến. Tôi thấy bên kia có khói, bị hai người dọa sợ tới mức linh hồn nhỏ bé cũng mất." Dừng một chút, lại dùng tay che miệng thấp giọng nói: "Ngọn núi này có ma. Còn là nữ quỷ. Hai người nên cẩn thận chút."
"Không dối gạt vị tráng sĩ này, hai chúng tôi muốn ở nhờ một đêm, chẳng biết có tiện hay không?" Dứt lời cho người thợ săn một khối bạc vụn.
"Vị tiểu ca này, cậu quá khách khí. Nhị vị đi theo tôi." Người thợ săn vuốt ve khối bạc vụn, rất là cao hứng. Xem hai người này hơn nữa vị tiểu tuấn ca này không giống người xấu, mình một nghèo hai trắng (nghèo khó, không có gì đáng giá), cũng không có gì phải lo lắng.
Nhà người thợ săn này là một căn nhà tranh kiểu nhà nông, khó khăn lắm mới có thể ngăn chút gió tuyết. Vào bên trong, nhiệt độ cũng không khác gì bên ngoài.
Người thợ săn vừa đón hai người họ vào, vừa nói: "Trong nhà tôi cũng giống như ổ chó vậy, không có nữ nhân dọn dẹp. Nhị vị chê cười, ủy khuất nhị vị ở tạm một đêm."
Không ngờ hắn lại đưa hai người đến cùng một gian phòng. Người thợ săn có chút ngượng ngùng, gãi đầu, cười thật thà, ngượng ngập nói: "Vị tiểu ca này, vừa rồi cậu nói vị cô nương này là bằng hữu cậu, tôi cũng biết hai người ở chung không tiện. Chỉ là nhà tôi lại không chỗ khác. Còn lại một gian, bản thân tôi cũng phải ngủ. Hai người tốt xấu gì cũng hãy chấp nhận một chút."
Mạc Hi lại bỗng nhiên mở miệng hỏi: "Vị tráng sĩ này. Lúc nãy huynh nói nơi đây có ma quỷ lộng hành, đó là chuyện gì?"
"Vị cô nương này có điều không biết. Từ đây đi về phía tây năm dặm, có một Diêm Vương Pha (pha: sườn núi, dốc nghiêng). Nhị vị chắc cũng nhìn thấy, nơi đây người ở rất thưa thớt. Những người bị nữ quỷ bắt hồn chết đều chôn ở Diêm Vương Pha. Ban đầu trong thôn có người chết ly kỳ, mọi người cũng không quan tâm lắm. Dù sao sinh lão bệnh tử cũng là chuyện thường tình của con người. Ai ngờ sau đó người chết càng ngày càng nhiều. Thẳng đến năm trước mới giảm xuống, đó là bởi vì người thì chết, người thì bỏ trốn, nơi đây gần như không còn ai. Mọi người đều nói là do Diêm Vương gia phái nữ quỷ này đến lấy mạng, vì thế liền đem những người chết chôn ở một chỗ, lai gọi nơi đó là Diêm Vương Pha, hi vọng Diêm Vương gia nể tình đã bắt nhiều người như vậy xuống địa phủ, có thể giơ cao đánh khẽ." Dứt lời hắn vẫn còn sợ hãi rụt cổ lại, giống như cực sợ mình là người kế tiếp bị nữ quỷ bắt hồn.
"Vậy nữ quỷ bắt hồn là chuyện gì xảy ra?" Những việc quái lực loạn thần này, nếu đặt ở kiếp trước, Mạc Hi tất nhiên là không tin. Nhưng hiện nay nghiêm khắc mà nói chính nàng cũng coi như là yêu quái.
"Việc này tôi cũng không rõ lắm. Những người già đều nói nữ quỷ này vốn là người trong thôn. Tuy là con nhà nông, nhưng diện mạo lại khá đẹp, cũng coi như là con nhà trong sạch, sau lại không biết như thế nào, cùng người tư thông châu thai ám kết (chưa lấy chồng mà có thai), thiếu chút nữa bị cha nàng đánh chết. Hỏi nàng nam nhân kia là ai, chết sống không chịu nói. Người trong thôn muốn kéo nàng đi ngâm lồng heo (bỏ vào lồng heo để không cử động được rồi quăng xuống nước cho chết ngạt), nàng liền suốt đêm chạy thoát. Cha nàng suốt ngày lải nhải gia môn bất hạnh, lại bị người trong thôn chỉ trỏ, hơn nữa nữ nhi duy nhất bỏ trốn, tuổi lớn không người chiếu cố, không bao lâu liền tích tụ tâm bệnh mà chết. Đại khái qua một năm, trong thôn bắt đầu lần lượt có người chết. Mọi người đều nói nữ nhân này chết ở bên ngoài, hóa thành lệ quỷ (quỷ ác độc) trở về trả thù." Khi người thợ săn nói đến đoạn này bên ngoài gió thổi ù ù, gió lạnh tiến vào gian nhà tranh, quả thật có vài phần quỷ dị của âm phong trận trận quỷ khí sâm sâm (gió cõi âm từng trận, hơi thở của quỷ dày đặc).
"Vì sao nói là ma quỷ lộng hành? Trên người thi thể có vết thương gì không?" Mạc Hi hỏi tiếp.
"Tôi cũng không biết nữa. Người chết mà, mọi người đều sợ xui xẻo, ngay cả người chôn xác có gan lớn, cũng không dám nhìn kĩ."
"Người khác đều bỏ đi, sao huynh không đi? Tôi thấy lúc nãy huynh cũng rất sợ mà, sao còn ở lại đây?" Im lặng một lúc lâu soái ca ‘tự nhiên’ rốt cục cũng có cơ hội mở miệng.
"Khi đó trong nhà nghèo khó, lại gặp triều đình trưng binh, đại ca tôi liền đi. Tôi sợ nếu tôi bỏ đi, đại ca trở về tìm không thấy người." Dứt lời lại thở dài nặng nề.
Soái ca ‘tự nhiên’ an ủi nói: "Nghe nói mấy ngày nay đại quân Tây Bắc cho về nhà thăm người thân. Không biết chừng đại ca huynh sẽ trở lại."
Ai ngờ người thợ săn lại thở dài nói: "Đừng nói nữa, mấy ngày trước đại ca đã trở lại một lần. Ai ngờ tôi vừa nói với huynh ấy chuyện đại tẩu chẳng biết đi đâu, huynh ấy liền như phát điên đi khắp nơi tìm người. Aiz, cũng đã qua nhiều năm, sao mà dễ dàng tìm được như vậy." Ngừng một chút, hắn lại hối hận nói: "Kỳ thật đây đều là do tôi. Lúc trước đại ca đi tòng quân, tôi sợ người ta rảnh rỗi lại nói chị dâu em chồng tình ngay lý gian linh tinh, để tránh bị nghi ngờ nên đã chuyển đến đây ở. Là tôi không chiếu cố tốt cho đại tẩu, thật có lỗi với đại ca tôi."
Mạc Hi cùng soái ca ‘tự nhiên’ trao đổi ánh mắt, trăm miệng một lời nói: "Đại ca huynh có phải bị thương ở vai hay không? Hai huynh đệ của huynh có phải họ Lạc hay không?"
Người thợ săn kinh ngạc nói: "Nhị vị làm sao mà biết? Là gặp đại ca tôi ở bên ngoài sao?"
"Vậy thì không có, chỉ là trong lúc vô tình nghe vài người tham gia quân ngũ nhắc tới." Mạc Hi nói.
"Aiz. Đại ca tôi đi lính đã nhiều năm như vậy, cuối cùng vì bị thương mà phải xuất ngũ. Vợ lại mất tích. Đã có tuổi, lại ngay cả con cũng không có." Người thợ săn từ từ thở dài, lại nói: "Lời này tôi cũng chưa dám nói trước mặt đại ca tôi, chị dâu nói không chừng đã bị nữ quỷ kia hại. Những người già thường nói rằng nữ quỷ này do lúc trước có thai chưa kịp sinh con đã chết, bởi vậy đặc biệt ghen tị với phụ nữ mang thai, chuyên lấy mạng những người phụ nữ này. Lúc đại ca ra đi đại tẩu đang có thai."
"Nữ quỷ chuyên tìm phụ nữ có thai lấy mạng lại là chuyện gì?" Soái ca ‘tự nhiên’ hỏi.
"Mấy năm trước, người chết ly kỳ trong thôn nam nữ già trẻ đều có. Sau lại có một thời gian người chết đều là phụ nữ mang thai, hơn nữa tử trạng thật là thê thảm, đều bị xé bụng, lấy đứa trẻ chưa kịp sinh ra mà chết thảm." Người thợ săn nói đến đây, không biết là lạnh hay là sợ hãi, lời nói trở nên không mạch lạc.
Soái ca ‘tự nhiên’ nói: "Việc này thật kì lạ. Đều nói quỷ sợ phụ nữ có thai. Bởi vì phụ nữ có thai mỗi khi sinh một đứa trẻ, liền đại biểu một quỷ hồn dưới âm tào địa phủ được chuyển thế đầu thai lần nữa, cho nên phụ nữ có thai có thể trừ tà phá pháp. Nhưng phụ nữ mang thai một khi sinh nở, dương khí sẽ yếu đi rất nhiều, mới có thể khiến quỷ nhập vào người. Như thế nào nữ quỷ này lại chuyên tìm phụ nữ có thai chưa sinh để xuống tay chứ?"
Người thợ săn nghe xong chỉ nghi hoặc khó hiểu, thấy hai người này nghe hắn lải nhải hồi lâu, trên mặt cũng không hiện nửa phần sợ hãi, trong lòng biết một nam một nữ ngẫu nhiên gặp trong tuyết này không phải người thường. Thấy đêm đã khuya, liền đưa đến cho bọn họ một cái chăn bông, rồi về phòng mình.
Soái ca ‘tự nhiên’ không nói hai lời liền nằm trên mặt đất. Nhà tranh thật sự rất đơn sơ, trên mặt đất căn bản chỉ là đất. Mùa đông khí hậu khô ráo, đất này vừa lạnh lại vừa cứng.
Mạc Hi nằm trên giường, cân nhắc lời người thợ săn vừa nói. Việc bến đò Phong Lăng tiêu điều với nơi này người ở rất thưa thớt có liên hệ gì hay không?
Chợt nghe soái ca ‘tự nhiên’ nằm trên đất nói: "Hay là ngày mai chúng ta đi Diêm Vương Pha xem thử nhé."
"Được." Mạc Hi xưa nay không thích lo chuyện bao đồng, nhưng nếu việc bến đò Phong Lăng tiêu điều có liên quan đến Thừa Ảnh, mà thanh kiếm này nàng lại nhất định phải có, tiện đường dò hỏi một phen cũng không sao.
Hai người cả đêm không nói gì.
Mạc Hi rửa mặt xong, xuống lầu gọi một chén cháo khoai lang, một cái bánh bao tể thái (tể thái là một loại cỏ, còn non có thể ăn được, dùng làm thuốc giải nhiệt, cầm máu), hai cái trứng trà ngũ vị hương (trứng luộc trong nước trà). Chỗ nổi bật ở quán trọ đã dán bố cáo: hôm nay bến đò đã mở cửa. Hi vọng các vị khách quan đừng bỏ lỡ thời gian.
Ăn xong điểm tâm cách thời gian đò khởi hành không lâu lắm. Liền đem theo bao vải nhỏ của nàng trả tiền rồi đi.
Hai mươi năm trước bến đò Phong Lăng cũng không giống như hiện tại chỉ là một bến đò, mà còn là nơi giao lưu buôn bán của thành trấn. Mạc Hi chầm chậm bước đi trong thành cổ hoang sơ. Từ bố cục trước cửa hàng sau phố phường và kiến trúc trên các cửa tiệm mà xem, nơi này trước đây nhất định vô cùng phồn hoa. Tuyết trắng phủ ngói, trên những căn lầu hoang đầy tuyết ngẫu nhiên lộ ra một góc sơn đỏ loang lổ, càng hiện rõ sự tĩnh mịch thê lương.
Đi qua một cây cầu đá có đề hai chữ "Điệp trướng" (núi non trùng điệp), tiếp tục đi một nén hương nữa là một cây cầu hình vòm có đề hai chữ "Chẩm giang" (gối lên sông). Mạc Hi nhìn dãy núi phía sau, lại nhìn bậc thang xuống dưới ở đằng trước, một dãy cửa hàng nối tiếp con đê đá trên sông, tỉnh ngộ: chỉ bốn chữ này đã nói hết kết cấu của bến đò Phong Lăng.
Nàng còn chưa kịp tán thưởng cổ nhân sử dụng văn tự xuất thần nhập hóa, liền thấy trong tuyết trắng một bóng người mặc áo thu màu sẫm, không khỏi âm thầm thở dài một tiếng: âm hồn không tan.
Mạc Hi một đường đi tới vẫn chưa hiển lộ võ công, có lẽ hắn nghe thấy tiếng bước chân, quay đầu, chớp mắt một cái liền đến trước mặt nàng, chưa nói đã cười. Nụ cười kia trong nắng sớm nhàn nhạt, giữa băng tuyết, lại có cảm giác đất hoang nở hoa. Một lát sau mới nói: "Thật xin lỗi, ta thức quá sớm, không đành lòng quấy nhiễu giấc ngủ của cô, nên không gọi cô cùng đi." Giọng nói ôn hòa hiền hậu, giống như nói chuyện cùng bạn bè.
Mạc Hi trong lòng thầm mắng: vô nghĩa, ta có thể không nghe thấy động tĩnh cách vách sao... Cô nương ta không sợ ngươi đi xa, chỉ sợ ngươi đi không đủ xa. Trên mặt lại bất động thanh sắc nói: "Là ta thức trễ." Trong lòng lại tiếp một câu: đáng tiếc còn chưa đủ trễ.
Soái ca ‘tự nhiên’ nghe nàng trả lời như thế, ngược lại ngẩn người, nhưng chốc lát liền khôi phục nụ cười, hỏi: "Cô nương có phải lần đầu tiên đến đây qua sông hay không?"
"Đúng thế."
Sau đó hắn lại lít rít líu ríu nói một vài thứ không có dinh dưỡng (những câu chuyện nhạt nhẽo, không quan trọng), Mạc Hi chỉ cảm thấy đi cùng người này giống như đặt mình trong đàn quạ đen. Kỳ thật hắn nói về phong cảnh, nhân tình một số nơi rất là thú vị, chỉ là lộn xộn chút. Hơn nữa trong lời nói nghe ra là một người đọc rộng nhớ lâu, đi lại nhiều nơi. Chỉ là Mạc Hi hành tẩu giang hồ một thân một mình đã quen, liền có chút không kiên nhẫn.
Một đường kiềm nén xúc động muốn trực tiếp đánh bay hắn. Thật vất vả qua khỏi gác chuông, sắp đến bến đò.
"Nơi này được gọi là 'Quá Nhai tháp'. Tháp chính là phật, rất nhiều người vội qua đò không kịp đi lễ Phật nơi đây, liền xây dựng tháp này thành dạng rỗng, mọi người đi qua dưới tháp, liền tính đã lễ Phật, có thể phù hộ bình an. Trong tháp vốn có treo một thanh kiếm, đó là một trong thập đại danh kiếm Thừa Ảnh."
Mạc Hi nghe đến đây, hai mắt sáng ngời, cảm thấy hứng thú hỏi: "Vậy sau đó thế nào, thanh kiếm này vì sao lại đổi chỗ?"
Soái ca ‘tự nhiên’ thấy nàng hứng thú, đương nhiên càng ra sức nói: "Sau khi bến đò Phong Lăng xây xong, trăm năm nay bởi vì có đông khách qua đường, dần dần trở thành nơi hết sức phồn hoa. Những mảnh đất hai bên đê đá, lại càng tấc đất tấc vàng, cũng thành nơi tụ tập buôn bán khi đó. Quán trọ, tiệm trà, cửa hàng, lần lượt mọc lên, nằm dọc theo thềm đá. Tất cả hàng hóa của những thôn trang gần đây đều đem đến buôn bán, sầm uất có thể tưởng tượng được. Người giàu trong vùng này, tự nhiên sẽ cảm thấy đây là một khối đất phong thuỷ quý hiếm, liền nói là có rồng nằm. Nhưng sau đó mọi người lại sợ rồng trong vùng theo dòng sông mà chạy đi, vì thế ngay tại bến đò Phong Lăng tạo nên tháp này, trấn long thân. Lại treo Thừa Ảnh kiếm có thể trấn yêu trừ tà trong tháp, để uy nhiếp du long."
"Rồng là linh vật, vì sao lại dùng Thừa Ảnh có thể trấn yêu tránh tà chứ?"
"Rồng tuy là linh thú, nhưng vẫn không thay đổi được khí thế hung ác, Thừa Ảnh xưa nay được xưng là tao nhã chi kiếm, có thể hóa lệ khí (khí thế hung ác) thành tường hòa (tốt lành hài hòa)."
"Là ai đem Thừa Ảnh để vào trong tháp?"
"Là chủ nhân ngày xưa của nó, người được mệnh danh thiên tài võ học tức tiền nhiệm chưởng môn Hà Quần Thanh của Thục Sơn phái. Ngày xưa Hà Quần Thanh vì cuộc sống của bá tánh thiên hạ, chủ động dâng ra bội kiếm tùy thân cùng ông ấy gắn bó làm bạn nhiều năm."
Mạc Hi biết rõ hắn nói một nửa lưu một nửa là cố ý, lại cũng không thể không hỏi: "Vậy vì sao sau này lại lấy đi?"
"Sau đó chưởng môn Thục Sơn là Lâm Tích bỏ phái Thục Sơn, Thục Sơn như rắn mất đầu, lòng người dao động, vì chỉnh nhân tâm, chấn uy danh, Thừa Ảnh liền được Hà Quần Thanh thu hồi, truyền cho đương nhiệm chưởng môn Cù Diệu."
Mạc Hi nghe đến đây không khỏi âm thầm tự nhủ, đã là vật truyền thừa cho người đủ tư cách làm chưởng môn, Cù Diệu há lại dễ dàng đồng ý giao kiếm. Việc này còn cần suy tính kĩ hơn.
Hai người một đường trò chuyện với nhau đến bến đò.
Đợi không đến nửa canh giờ, đò liền rời bến. Cảnh sắc hai bên bờ sông thật là hùng vĩ, xa xa những ngọn núi cao hiểm trở như xuyên thẳng đến trời cao nằm cạnh dòng sông chảy thẳng rồi đột ngột đổi hướng. Bên bờ cành quỳnh cây ngọc trong suốt lóng lánh, sương đọng trên lá cây lấp lánh ánh bạc.
Vì nước sông chảy xiết, vả lại còn có băng trôi, nên thân thuyền tạo thành từ gỗ thô (gỗ nguyên cây, chỉ đục đẽo phần giữa để có chỗ ngồi) bền chắc, mặc dù so ra kém thuyền viễn dương của thời hiện đại, nhưng ở thời này cũng coi như cực lớn. Mạc Hi đứng trên sàn thuyền nhìn phong cảnh đủ rồi, không muốn đứng trong gió lạnh gào thét nữa, liền vào trong khoang thuyền. Soái ca ‘tự nhiên’ cũng đi theo vào.
Bên trong lại có một ông lão tóc trắng xóa đang kể cho mọi người nghe về truyền thuyết bến đò Phong Lăng:
"Nghề chèo đò này đò là từ đời tổ tiên của lão truyền xuống, nay ta lại truyền cho con ta. Thứ khác lão không biết, nhưng truyền thuyết về bến đò Phong Lăng này cũng có biết chút ít. Tương truyền bến đò Phong Lăng cũ có Huyết Lệ Thạch (đá máu và nước mắt) của đệ nhất tể tướng Sở Thương bổn triều. Sở Thương vốn là đại Tư Mã (hai chữ Tư Mã từ đời nhà Chu được dùng để gọi một chức quan võ coi tất cả các việc binh trong nước, tức là chức Binh bộ Thượng thư đời sau) của tiền triều Kinh, thê tử của hắn vì có dung mạo chim sa cá lặn, trong một lần cung đình có yến hội cho phép những mệnh phụ bên ngoài vào yết kiến, bị vị quốc quân đời thứ hai của tiền triều là Mộ Dung Chấp nhìn trúng, cường nạp làm phi. Nàng này tính tình cương liệt, thề chết không theo, Mộ Dung Chấp liền phái người đuổi giết Sở Thương, cho rằng nếu trượng phu nàng chết nàng sẽ thay đổi tâm ý. Sở Thương một đường đêm đi ngày trốn, cuối cùng tới sông Mân, bi phẫn rơi lệ nôn máu trên tảng đá lớn bên bờ bến đò Phong Lăng. Sau đó trải qua phong sương tuyết vũ, màu đỏ sẫm trên tảng đá này không phai. Sở Thương sau khi qua sông đã ra tây lĩnh quan, chạy trốn tới tiểu quốc Nghiệp (tên đất thời xưa, ở phía bắc An Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc) lân bang. Mấy năm sau, Sở Thương dẫn dắt Nghiệp binh phá tây lĩnh quan diệt tiền triều Kinh. Sở Thương còn quật mộ Mộ Dung Chấp, tiên thi (đánh xác chết bằng roi) ba trăm, báo mối hận đoạt vợ."
Mạc Hi âm thầm gật đầu, Nghiệp lúc trước chính là Nam triều ngày nay, quốc hiệu "Nam" là sau khi nhập quan mới sửa. Chỉ là Nghiệp vốn rất cằn cỗi, khí hậu lạnh khủng khiếp, nên sau khi nhập quan, đất cũ bị bỏ hoang. Dần dà mảnh đất này liền bị dân tộc du mục địa phương chiếm cứ thống trị. Thì ra hoàng đế tiền triều Kinh bị tiên thi là chuyện như vậy. Không cần phải nói, vị Sở phu nhân khuynh quốc khuynh thành này lại bị mang danh hồng nhan họa thủy trên lưng. Trước giờ nếu hoàng đế làm chuyện gì ngu xuẩn hoặc không có đức hạnh, từ sử quan, cho tới dân chúng, đều thích đổ lên người nữ nhân, thật sự là gán tội cho người khác.
Soái ca ‘tự nhiên’ nghe xong liền nói tiếp: "Câu chuyện này còn chưa hết. Ngày đế đô Kinh triều đạt được thành, thái tử công tử Hiểu chạy khỏi kinh thành, lại từ Phong Lăng vượt qua sông Mân, ra tây lĩnh quan, kỳ thật khi đó còn gọi tần quan, chạy đến biên cảnh Nghiệp, ẩn náu. Hậu nhân có thơ
Quần sơn vạn hác hợp thành vi, trường kiếm đông lai nguyện dĩ vi.
Khu mã quan môn bi cố quốc, hồi đầu chiến lũy cách tà huy.
Dĩ khán giang thượng thiên phàm quá, mạc nhạ lô trung nhất diệp phi.
Diệc hữu kê minh phương đắc độ, Tần Quan tuy hiểm cánh năng xuất.
Bài thơ này nói về quá trình hắn ngàn dặm đào thoát. "Mạc nhạ lô trung nhất diệp phi" là chỉ công tử Hiểu qua sông Mẫn. "Kê minh phương đắc độ" là nói hắn vốn bị đất Nghiệp phá thành bắt làm tù binh, thái tử phi của hắn vì để hắn thuận lợi thoát đi, tự nguyện hiến thân cho Nghiệp tướng lãnh binh ngày đó, người đất Nghiệp đó liền lén thả công tử Hiểu. Công tử Hiểu trốn tới tần quan, dựa vào một mưu sĩ giả gà gáy lừa binh sĩ thủ quan mở cửa thành trước, mới có thể thuận lợi thoát khỏi truy binh xuất quan."
Mạc Hi nghe xong không khỏi có cảm giác thổn thức vô hạn, cho dù vạn dặm giang sơn này đều là nam nhi đời đời tương truyền, giang sơn thay đổi lại không thể thiếu hồng nhan dùng máu lệ thân thể đúc thành. Thầm nghĩ: Soái ca ‘tự nhiên’ om sòm thì có om sòm chút, nhưng trong bụng trữ hàng thật không ít. Ngẫu nhiên khoe chữ cũng có chút tác dụng.
Mạc Hi ngồi ở góc khoang thuyền nhắm mắt dưỡng thần. Soái ca ‘tự nhiên’ lúc này thật ra rất thức thời, trong hai canh giờ đi thuyền không hề nói tiếng nào.
Rời thuyền lên bờ. Trong thời tiết rét đậm, tuyết rơi phủ đầy núi, người võ nghệ tầm thường căn bản không thể lên Thục Sơn, càng không cần phải nói người đến bái sư học nghệ. Nên những người trên đò này đều là đi tới thôn trấn gần đó.
Trước khi đến Mạc Hi đã sớm xem bản đồ. Sau khi cập bờ chạy dài vài trăm dặm đều là rừng sâu núi thẳm, không thể tìm nơi ngủ trọ. Nếu muốn tìm chỗ an thân qua đêm như vậy trước khi trời tối nhất định phải tìm được nhà nông dân nào đó đồng ý cho ở nhờ.
Chỉ là hai người họ đã đi rất lâu, cũng sắp qua giờ cơm vẫn không thấy một luồng khói bếp nào.
Soái ca ‘tự nhiên’ đề nghị bắt chim thú hoang ăn no bụng trước rồi tính. Mạc Hi không có ý gì khác, tự đi săn hai con thỏ tuyết. Khi trở về thấy soái ca ‘tự nhiên’ đã nhóm lửa lên. Lúc này hắn cực kì có phong độ thân sĩ, chuyện kế tiếp đều không cần Mạc Hi động thủ, hắn một mình ôm lấy mọi việc.
Chỉ thấy hắn từ trong lòng lấy ra một cái bình ngọc lưu ly nhỏ cỡ lọ thuốc hít, vừa lột da thỏ ướp gia vị vào thịt, vừa nói: "Đây là muối, thìa là, tiêu đen, tỏi khô." Xát đều một vòng, liền xiên thịt thỏ vào nhánh cây nướng. Mạc Hi đối với việc hắn mang theo gia vị bên người vô cùng kính nể. Nhìn hắn động tác lưu loát có trật tự, chắc hẳn kinh nghiệm sinh tồn nơi hoang dã khá phong phú.
Chỉ chốc lát thịt đã tỏa ra mùi thơm, soái ca ‘tự nhiên’ lấy đoản kiếm tùy thân ra, cắt thịt thỏ từng miếng từng miếng đặt trong chén gỗ đưa cho Mạc Hi, nói: "Cô nương nếm thử tay nghề của ta đi." Kích thước của đoản kiếm kia cùng đoản kiếm bình thường không có gì khác, cũng là một thanh loan đao nhỏ, trên lưỡi dao có một loạt khoen thật nhỏ, trên chuôi đao màu bạc khảm trân châu cùng phỉ thúy đan xen thành một hàng. Trân châu đó đã ố vàng, nhưng vẫn không thể che lấp sự tinh xảo quý giá của đoản kiếm. Chén gỗ vết cắt vẫn còn mới tinh, xác nhận là trực tiếp khoét từ cọc gỗ nhỏ, đao công lại cực kỳ tinh tế, miệng chén vô cùng bằng phẳng, mặt chén cũng vô cùng nhẵn bóng. Đây là một thanh bảo đao chém sắt như chém bùn không thể nghi ngờ.
Ngoại trừ chén gỗ, còn tặng thêm một đôi đũa vót từ nhánh cây. Mạc Hi dùng ngón tay vuốt chiếc đũa, không ngờ một chút dằm cũng không có, thầm nghĩ: hắn làm thợ mộc nhất định không tệ.
Soái ca ‘tự nhiên’ đưa Mạc Hi bát đũa, bản thân lại không chú ý như vậy, chỉ dùng tay lấy thịt thỏ còn lại ăn.
"Huynh định đi đâu?" Mạc Hi quyết định vẫn là đi thẳng vào vấn đề sẽ tốt hơn.
Soái ca ‘tự nhiên’ cười cười, nói: "Ta đi Thục Sơn."
Mạc Hi ai thán một tiếng, trong lòng biết đá không khỏi hắn, liền không nói nửa lời. Tình hình trước mắt, nàng không sợ hắn hạ độc. Nếu hai người động thủ, tuy rằng không thắng được hắn, muốn toàn thân trở ra cũng không khó. Cho nên nàng không lo nhiều. Vả lại còn phải xem hắn muốn như thế nào nữa.
Hai người ăn no, liền muốn đi tìm nơi dừng chân cho đêm nay. Ai ngờ vừa đứng dậy liền nghe được cách đó không xa bùm một tiếng.
Mạc Hi chậm lại nửa nhịp, đi theo soái ca ‘tự nhiên’ về phía tiếng vang kia. Súng bắn chim đầu đàn (có xung dột gì thì người đi đầu sẽ bị đánh trước), có vị võ công mạnh hơn này chắn phía trước nàng, nàng vẫn là tiếp tục làm rùa đen rút đầu đi.
Là một người có dáng vẻ thợ săn, ngã bổ nhào trong tuyết. Quần áo vải bố và da thú trên người hợp lại rất có phong cách thời trang dã thú. Người này không có võ công, cho nên hai người Mạc Hi đã gần ngay trước mắt hắn cũng không phát hiện. Lại vẫn hai tay ôm đầu sợ tới mức phát run, miệng lung tung lặp lại: "Tiểu nương tử. Tha mạng a tha mạng..." Giọng nói đã bởi vì hoảng sợ cực độ mà không còn rõ ràng.
Soái ca ‘tự nhiên’ nói: "Vị tráng sĩ này, chúng tôi sẽ không thương tổn huynh, huynh không cần sợ hãi."
Mạc Hi nghe hắn gọi người thợ săn này là tráng sĩ, liền biết thằng nhãi này có chủ ý gì, nhưng cũng vui vẻ đứng ngoài.
Lúc này người thợ săn mới hơi thả lỏng tay ôm đầu, ánh mắt mở he hé, thấy soái ca ‘tự nhiên’ vừa muốn thả lỏng, giương mắt lại nhìn thấy Mạc Hi đứng phía sau hắn, theo phản xạ lập tức chôn đầu vào tuyết, trong miệng la hét: "Ngươi, ngươi cẩn thận, nàng, nàng ngay phía sau ngươi..."
Soái ca ‘tự nhiên’ lại nói: "Vị tráng sĩ này có lẽ đã có chút hiểu lầm. Vị cô nương này là bằng hữu của tại hạ, chúng tôi không có ác ý." Giọng nói của hắn ấm áp, thuần hậu, trong núi sâu yên tĩnh không một bóng chim, mơ hồ như có một loại sức mạnh làm yên lòng người.
Quả nhiên người thợ săn kia chậm rãi ngẩng đầu lên, nhìn Mạc Hi một cái, thấy nàng mới mười mấy tuổi, vẫn ăn mặc theo kiểu cô nương, liền hoàn toàn tỉnh táo lại. Chỉ là vừa thả lỏng, tay chân lại càng cảm thấy mệt mỏi, phịch một cái, nhất thời vẫn không đứng dậy được.
Soái ca ‘tự nhiên’ nhẹ nhàng nâng hắn lên, người thợ săn cuối cùng cũng đứng lên được, phủi đi tuyết đọng trên người, trên dưới đánh giá hai người trước mắt, chỉ chỉ phương hướng hai người vừa nhóm lửa, thô thanh nói: "Nơi này đã lâu chưa có người đến. Tôi thấy bên kia có khói, bị hai người dọa sợ tới mức linh hồn nhỏ bé cũng mất." Dừng một chút, lại dùng tay che miệng thấp giọng nói: "Ngọn núi này có ma. Còn là nữ quỷ. Hai người nên cẩn thận chút."
"Không dối gạt vị tráng sĩ này, hai chúng tôi muốn ở nhờ một đêm, chẳng biết có tiện hay không?" Dứt lời cho người thợ săn một khối bạc vụn.
"Vị tiểu ca này, cậu quá khách khí. Nhị vị đi theo tôi." Người thợ săn vuốt ve khối bạc vụn, rất là cao hứng. Xem hai người này hơn nữa vị tiểu tuấn ca này không giống người xấu, mình một nghèo hai trắng (nghèo khó, không có gì đáng giá), cũng không có gì phải lo lắng.
Nhà người thợ săn này là một căn nhà tranh kiểu nhà nông, khó khăn lắm mới có thể ngăn chút gió tuyết. Vào bên trong, nhiệt độ cũng không khác gì bên ngoài.
Người thợ săn vừa đón hai người họ vào, vừa nói: "Trong nhà tôi cũng giống như ổ chó vậy, không có nữ nhân dọn dẹp. Nhị vị chê cười, ủy khuất nhị vị ở tạm một đêm."
Không ngờ hắn lại đưa hai người đến cùng một gian phòng. Người thợ săn có chút ngượng ngùng, gãi đầu, cười thật thà, ngượng ngập nói: "Vị tiểu ca này, vừa rồi cậu nói vị cô nương này là bằng hữu cậu, tôi cũng biết hai người ở chung không tiện. Chỉ là nhà tôi lại không chỗ khác. Còn lại một gian, bản thân tôi cũng phải ngủ. Hai người tốt xấu gì cũng hãy chấp nhận một chút."
Mạc Hi lại bỗng nhiên mở miệng hỏi: "Vị tráng sĩ này. Lúc nãy huynh nói nơi đây có ma quỷ lộng hành, đó là chuyện gì?"
"Vị cô nương này có điều không biết. Từ đây đi về phía tây năm dặm, có một Diêm Vương Pha (pha: sườn núi, dốc nghiêng). Nhị vị chắc cũng nhìn thấy, nơi đây người ở rất thưa thớt. Những người bị nữ quỷ bắt hồn chết đều chôn ở Diêm Vương Pha. Ban đầu trong thôn có người chết ly kỳ, mọi người cũng không quan tâm lắm. Dù sao sinh lão bệnh tử cũng là chuyện thường tình của con người. Ai ngờ sau đó người chết càng ngày càng nhiều. Thẳng đến năm trước mới giảm xuống, đó là bởi vì người thì chết, người thì bỏ trốn, nơi đây gần như không còn ai. Mọi người đều nói là do Diêm Vương gia phái nữ quỷ này đến lấy mạng, vì thế liền đem những người chết chôn ở một chỗ, lai gọi nơi đó là Diêm Vương Pha, hi vọng Diêm Vương gia nể tình đã bắt nhiều người như vậy xuống địa phủ, có thể giơ cao đánh khẽ." Dứt lời hắn vẫn còn sợ hãi rụt cổ lại, giống như cực sợ mình là người kế tiếp bị nữ quỷ bắt hồn.
"Vậy nữ quỷ bắt hồn là chuyện gì xảy ra?" Những việc quái lực loạn thần này, nếu đặt ở kiếp trước, Mạc Hi tất nhiên là không tin. Nhưng hiện nay nghiêm khắc mà nói chính nàng cũng coi như là yêu quái.
"Việc này tôi cũng không rõ lắm. Những người già đều nói nữ quỷ này vốn là người trong thôn. Tuy là con nhà nông, nhưng diện mạo lại khá đẹp, cũng coi như là con nhà trong sạch, sau lại không biết như thế nào, cùng người tư thông châu thai ám kết (chưa lấy chồng mà có thai), thiếu chút nữa bị cha nàng đánh chết. Hỏi nàng nam nhân kia là ai, chết sống không chịu nói. Người trong thôn muốn kéo nàng đi ngâm lồng heo (bỏ vào lồng heo để không cử động được rồi quăng xuống nước cho chết ngạt), nàng liền suốt đêm chạy thoát. Cha nàng suốt ngày lải nhải gia môn bất hạnh, lại bị người trong thôn chỉ trỏ, hơn nữa nữ nhi duy nhất bỏ trốn, tuổi lớn không người chiếu cố, không bao lâu liền tích tụ tâm bệnh mà chết. Đại khái qua một năm, trong thôn bắt đầu lần lượt có người chết. Mọi người đều nói nữ nhân này chết ở bên ngoài, hóa thành lệ quỷ (quỷ ác độc) trở về trả thù." Khi người thợ săn nói đến đoạn này bên ngoài gió thổi ù ù, gió lạnh tiến vào gian nhà tranh, quả thật có vài phần quỷ dị của âm phong trận trận quỷ khí sâm sâm (gió cõi âm từng trận, hơi thở của quỷ dày đặc).
"Vì sao nói là ma quỷ lộng hành? Trên người thi thể có vết thương gì không?" Mạc Hi hỏi tiếp.
"Tôi cũng không biết nữa. Người chết mà, mọi người đều sợ xui xẻo, ngay cả người chôn xác có gan lớn, cũng không dám nhìn kĩ."
"Người khác đều bỏ đi, sao huynh không đi? Tôi thấy lúc nãy huynh cũng rất sợ mà, sao còn ở lại đây?" Im lặng một lúc lâu soái ca ‘tự nhiên’ rốt cục cũng có cơ hội mở miệng.
"Khi đó trong nhà nghèo khó, lại gặp triều đình trưng binh, đại ca tôi liền đi. Tôi sợ nếu tôi bỏ đi, đại ca trở về tìm không thấy người." Dứt lời lại thở dài nặng nề.
Soái ca ‘tự nhiên’ an ủi nói: "Nghe nói mấy ngày nay đại quân Tây Bắc cho về nhà thăm người thân. Không biết chừng đại ca huynh sẽ trở lại."
Ai ngờ người thợ săn lại thở dài nói: "Đừng nói nữa, mấy ngày trước đại ca đã trở lại một lần. Ai ngờ tôi vừa nói với huynh ấy chuyện đại tẩu chẳng biết đi đâu, huynh ấy liền như phát điên đi khắp nơi tìm người. Aiz, cũng đã qua nhiều năm, sao mà dễ dàng tìm được như vậy." Ngừng một chút, hắn lại hối hận nói: "Kỳ thật đây đều là do tôi. Lúc trước đại ca đi tòng quân, tôi sợ người ta rảnh rỗi lại nói chị dâu em chồng tình ngay lý gian linh tinh, để tránh bị nghi ngờ nên đã chuyển đến đây ở. Là tôi không chiếu cố tốt cho đại tẩu, thật có lỗi với đại ca tôi."
Mạc Hi cùng soái ca ‘tự nhiên’ trao đổi ánh mắt, trăm miệng một lời nói: "Đại ca huynh có phải bị thương ở vai hay không? Hai huynh đệ của huynh có phải họ Lạc hay không?"
Người thợ săn kinh ngạc nói: "Nhị vị làm sao mà biết? Là gặp đại ca tôi ở bên ngoài sao?"
"Vậy thì không có, chỉ là trong lúc vô tình nghe vài người tham gia quân ngũ nhắc tới." Mạc Hi nói.
"Aiz. Đại ca tôi đi lính đã nhiều năm như vậy, cuối cùng vì bị thương mà phải xuất ngũ. Vợ lại mất tích. Đã có tuổi, lại ngay cả con cũng không có." Người thợ săn từ từ thở dài, lại nói: "Lời này tôi cũng chưa dám nói trước mặt đại ca tôi, chị dâu nói không chừng đã bị nữ quỷ kia hại. Những người già thường nói rằng nữ quỷ này do lúc trước có thai chưa kịp sinh con đã chết, bởi vậy đặc biệt ghen tị với phụ nữ mang thai, chuyên lấy mạng những người phụ nữ này. Lúc đại ca ra đi đại tẩu đang có thai."
"Nữ quỷ chuyên tìm phụ nữ có thai lấy mạng lại là chuyện gì?" Soái ca ‘tự nhiên’ hỏi.
"Mấy năm trước, người chết ly kỳ trong thôn nam nữ già trẻ đều có. Sau lại có một thời gian người chết đều là phụ nữ mang thai, hơn nữa tử trạng thật là thê thảm, đều bị xé bụng, lấy đứa trẻ chưa kịp sinh ra mà chết thảm." Người thợ săn nói đến đây, không biết là lạnh hay là sợ hãi, lời nói trở nên không mạch lạc.
Soái ca ‘tự nhiên’ nói: "Việc này thật kì lạ. Đều nói quỷ sợ phụ nữ có thai. Bởi vì phụ nữ có thai mỗi khi sinh một đứa trẻ, liền đại biểu một quỷ hồn dưới âm tào địa phủ được chuyển thế đầu thai lần nữa, cho nên phụ nữ có thai có thể trừ tà phá pháp. Nhưng phụ nữ mang thai một khi sinh nở, dương khí sẽ yếu đi rất nhiều, mới có thể khiến quỷ nhập vào người. Như thế nào nữ quỷ này lại chuyên tìm phụ nữ có thai chưa sinh để xuống tay chứ?"
Người thợ săn nghe xong chỉ nghi hoặc khó hiểu, thấy hai người này nghe hắn lải nhải hồi lâu, trên mặt cũng không hiện nửa phần sợ hãi, trong lòng biết một nam một nữ ngẫu nhiên gặp trong tuyết này không phải người thường. Thấy đêm đã khuya, liền đưa đến cho bọn họ một cái chăn bông, rồi về phòng mình.
Soái ca ‘tự nhiên’ không nói hai lời liền nằm trên mặt đất. Nhà tranh thật sự rất đơn sơ, trên mặt đất căn bản chỉ là đất. Mùa đông khí hậu khô ráo, đất này vừa lạnh lại vừa cứng.
Mạc Hi nằm trên giường, cân nhắc lời người thợ săn vừa nói. Việc bến đò Phong Lăng tiêu điều với nơi này người ở rất thưa thớt có liên hệ gì hay không?
Chợt nghe soái ca ‘tự nhiên’ nằm trên đất nói: "Hay là ngày mai chúng ta đi Diêm Vương Pha xem thử nhé."
"Được." Mạc Hi xưa nay không thích lo chuyện bao đồng, nhưng nếu việc bến đò Phong Lăng tiêu điều có liên quan đến Thừa Ảnh, mà thanh kiếm này nàng lại nhất định phải có, tiện đường dò hỏi một phen cũng không sao.
Hai người cả đêm không nói gì.
/68
|