Edit & Beta: Đòe
“Tướng quân, đã sắp xếp ổn thỏa cho người dân.” phó tướng cung kính báo cáo.
Sầm Diệc nhìn dãy núi phía xa, ánh bình minh vừa ló rạng, phía đông dần bừng sáng, cây cối xơ xác phủ đầy sương sớm, lạnh lẽo hoang vắng. Điều này khiến cho Sầm Diệc nhớ lại ngày ấy tiểu thúc qua đời. Sầm Hi bị thương rất nặng, tổn thương đến phổi và tim, ông cố gắng chống đỡ được nửa tháng, hoa mai trong viện còn chưa kịp nở thì ra đi.
Sầm Hi ho cả đêm, nôn ra máu đen, dù y và Sầm Dạ Lan có lau thế nào cũng không sạch được.
Từ nhỏ đến lớn, Sầm Hi như một vị thần trong mắt Sầm Diệc, ông không chỉ là Chiến thần Bắc Cảnh, mà còn là vị thần trong lòng y, đánh đâu thắng đó, sẽ không bao giờ gục ngã.
Nhưng vị thần của y giờ đang hấp hối và vô cùng đau đớn.
Mười năm sau, mỗi lần nghĩ lại, Sầm Diệc vẫn cảm thấy lòng đau nhói.
Sau đó Sầm Hi đột nhiên tỉnh lại, như là hồi quang phản chiếu, ông mở mắt ra, nhìn Sầm Diệc, khàn giọng nói: “Diệc Nhi, sao con lại khóc?”
Sầm Diệc nghẹn ngào: “Tiểu thúc thúc... Người đừng đi.”
Sầm Hi gắng gượng nở nụ cười, vươn tay sờ sờ gò má Sầm Diệc, ngón tay lạnh như băng cố gắng lau nước mắt cho y: “Đã là một vị tướng quân rồi, sao còn khóc như một đứa trẻ.”
Sầm Diệc rất đau lòng, nước mắt chảy giàn giụa. Sầm Hi khe khẽ thở dài, đưa mắt nhìn Sầm Dạ Lan đang đứng bên giường, thiếu niên từ trước đến giờ vẫn luôn dè dặt, nhưng hai mắt đã đỏ hoe, như đang phải chịu đựng sự đau buồn vô tận.
Sầm Hi nói: “Diệc Nhi, con đi ra ngoài trước, ta có lời muốn nói với A Lan.”
Sầm Diệc giật mình, lông mi còn đọng nước mắt, luống cuống mà nhìn Sầm Hi:“... Tiểu thúc thúc.”
Sầm Hi nhắm mắt lại, nói: “Nghe lời.”
Sầm Diệc quay đầu lại nhìn Sầm Dạ Lan, mím môi, rồi mới đứng lên, chậm rãi lui ra ngoài gian nhà, lúc y đóng cửa lại, Sầm Dạ Lan đã quỳ gối bên giường bệnh, đôi tay gầy gò và xanh xao của Sầm Diệc đang đặt trên vai Sầm Dạ Lan.
Sầm Diệc đứng ở ngoài cửa, trong viện chỉ có Cố Bách Ưu và đồ đệ của ông, mấy người hầu, y và mọi người đều ở bên ngoài. Trời còn chưa sáng hẳn, đêm đông gió lạnh thấu xương, tiếng nghẹn ngào nức nở, khiến cho lòng người phiền muộn.
Sầm Diệc ngơ ngác nhìn mấy cây hồng mai trong sân, cảm thấy toàn thân lạnh toát, khi còn rất nhỏ y đã đi theo Sầm Hi. Thời điểm phụ thân chết trận, Sầm Diệc cũng chỉ mới năm tuổi, nắm lấy áo bào Sầm Hi hỏi, tiểu thúc thúc, cha con đâu rồi?
Sầm Hi mặc đồ trắng, ngồi xổm xuống, nhẹ nhàng nắm tay y, nói:“ Diệc Nhi, cha con đã rời đi và đến một nơi rất xa, sau này con đi theo tiểu thúc, có được không nào?”
Sầm Diệc không hiểu, nói:“ Cha sẽ không trở lại nữa sao?”
Khóe mắt Sầm Hi hơi đỏ lên, giọng có chút đỏ lên:“ Không về nữa, sau này chỉ còn chúng ta...”
Sầm Diệc mở to hai mắt, nhưng y sâu sắc cảm nhận được nỗi buồn của Sầm Diệc, hoảng sợ, vươn tay ôm lấy Sầm Diệc nói:“ Tiểu thúc thúc đừng buồn mà, Diệc Nhi sẽ không hỏi nữa, sau này cũng sẽ bầu bạn với thúc.”
Nháy mắt đã qua nhiều năm, Sầm Diệc nghĩ, tiểu thúc thúc cũng đã bỏ lại y mà đi.
Nhưng mà người tiểu thúc muốn gặp trước lúc lâm chung nhất, lại không phải y.
Ở phía đông tia nắng ban mai xuyên qua màn đêm, Sầm Diệc chỉ nghe thấy tiếng gọi “Cha nuôi” của Sầm Dạ Lan ở trong phòng, đầu óc y đột nhiên trống rỗng, y chợt đẩy cửa ra, vẻ mặt của Sầm Hi rất bình tĩnh, ông đột ngột qua đời.
Cả người Sầm Diệc cứng đờ lại, trong giây lát, y dường như chết lặng.
Sầm Diệc vẫn không thể nào chấp nhận được sự thật Sầm Hi đã ra đi, hàng đêm mơ thấy Sầm Hi, niệm nhiều lần, rồi cũng tự bức điên chính mình luôn. Cả ngày chán nản, mãi đến tận khi Sầm Dạ Lan ấn y trước tấm bia của Sầm Hi, tức giận nói:“ Huynh thật sự muốn để cha nuôi thấy dáng vẻ bây giờ của mình sao?”
Sầm Diệc run lên, áp trán vào tấm bia một lạnh lẽo, như thể chạm vào bàn tay của Sầm Hi, y che mặt, sau đó nhìn lăng mộ Sầm Hi, rồi lại nhìn Sầm Dạ Lan.
Vào thời khắc ấy, trong y xuất hiện một nỗi oán hận đối với Sầm Dạ Lan, từ năm này qua tháng nọ, nó bùng phát như một căn bệnh hiểm nghèo chôn trong xương tủy.
Sầm Diệc hận Sầm Dạ Lan.
Sầm Diệc nhìn mặt trời đỏ sau dãy núi, tự hỏi, liệu đến khi trời sáng hẳn, có phải Sầm Dạ Lan cùng Diên Lặc đã đồng quy vô tận rồi không.
Sầm Diệc biết dù là trong mơ Diên Lặc cũng muốn giết chết Sầm Dạ Lan, Bắc Thương Quan bây giờ là một tòa thành rỗng, cửa thành mở ra, một cơ hội tốt như vậy, hắn sẽ không bỏ qua.
Mãi không thấy Sầm Diệc nói gì, phó tướng lo lắng: “Tướng quân?”
Sầm Diệc nói: “Không có gì.”
Phó tướng nói: “Tiểu thiếu gia đang trốn cùng với người dân, ngài có muốn giữ lại vài huynh đệ...”
Sầm Diệc nhàn nhạt nói: “Không cần.”
Y vừa ngước mắt lên, thì thấy đám con cháu kinh thành đang nhìn mình chằm chằm, tất cả đều là hầu cận của Nguyên Trưng.
Phương Tĩnh nói: “Sầm Diệc, ta nhất định sẽ tố cáo với Bệ hạ những gì ngươi làm ngày hôm nay!”
Sầm Diệc không hề bị lay động, nói: “Ngươi đi đi.”
Phương Tĩnh tức đến nổ phổi đá cục đá, lại thấy một tên trinh sát chạy đến báo cáo: “Tướng quân, chúng tôi phát hiện ở phía trước xuất hiện rất nhiều dấu vó ngựa, nhìn dấu vết, là đám người Hồ.”
Sầm Diệc cau mày: “Người Hồ?”
Phương Tĩnh nói: “Tại sao lại xuất hiện người Hồ ở đây?”
Chỉ lúc sau, sắc mặt Sầm Diệc chợt thay đổi, chửi một câu: “Ngu xuẩn!”
Sầm Diệc đột nhiên xoay người lên ngựa, nói: “Truyền lệnh xuống, nhanh chóng cho quân trở về Hãn Châu.”
“Vâng, thưa tướng quân!”
Không ai ngờ rằng sẽ có phiến quân* ở Bắc Thương Quan.
* Phản quân, quân phản động, quân phản quốc.
Cổng thành mở toang, một lượng lớn lính người Hồ đã tràn vào Bắc Thương Quan, đâu đó lửa bùng lên, không khí tràn ngập mùi khói thuốc súng và mùi máu.
Sầm Dạ Lan và Nguyên Trưng gần như rơi vào tình thế tuyệt vọng.
Mấy ngàn tướng lính bảo vệ thành miễn cưỡng sống sót hơn trăm người, một đường vừa đánh vừa lui. Vốn đang trời đông giá lạnh, thời tiết ở Bắc Cảnh khô hanh, lửa dần bùng cháy lớn.
Đột nhiên một mũi tên lạnh lẽo bắn về phía hắn, Nguyên Trưng trong hiểm gặp may tránh được, mũi tên lạnh lẽo sượt qua má hắn để lại vết thương lành lạnh, hắn dùng ngón tay quệt đi máu đang chảy trên mặt.
Nguyên Trưng hít một hơi, ngẩng đầu nhìn lên, con đường dài rộng, xung quanh là các quán hàng san sát nhau, vốn là một khu phố lớn sầm uất thịnh vượng, nhưng đã bị ngọn lửa chiến tranh tàn phá.
Xa xa là đội quân của người Hồ đang dần tiến đến, người dẫn đầu không phải Diên Lặc vẫn đang vây thành mà là Thư Đan, là Đại vương tử của người Hồ Thư Đan.
Sắc mặt Sầm Dạ Lan rất khó coi, sợi tua đỏ móc ở đầu ngọn trường thương đang cầm trong tay thấm đẫm máu, máu tươi nhỏ xuống tí tách tí tách.
“Tại sao lại là Thư Đan?” Nguyên Trưng vẫn mãi không nghĩ ra, trong thành xuất hiện phản tặc, cửa lớn bị mở ra, cố tình Thư Đan lại có mặt ở đây, mọi thứ diễn ra quá mức trùng hợp. Chiếm được Bắc Thương Quan, giết được Sầm Dạ Lan thì gã sẽ lập được công lớn, Diên Lặc sao có thể dễ dàng để cho Thư Đan chiếm được món hời này.
Nhưng nếu như Thư Đan ở đây, vậy còn Diên Lặc đâu?
Sắc mặt Sầm Dạ Lan trầm tĩnh như nước tù ao đọng, không nói gì, gió lạnh mang theo mùi máu tanh cùng khói thuốc nổ vờn quanh chóp mũi, y nhíu mày, nói: “... Mùi gì vậy?”
Nguyên Trưng giật mình, sắc mặt đột nhiên thay đổi, Sầm Dạ Lan cũng kịp thời phản ứng, hai người đều có chút kinh ngạc: “... Thuốc nổ!”
Không khí tràn ngập mùi diêm tiêu* của thuốc nổ, trộn lẫn trong khói cháy, rất mờ nhạt, nhưng không thể che giấu được với Sầm Dạ Lan và Nguyên Trưng.
* Kali nitrat hay còn gọi là diêm tiêu, là hợp chất hóa học có công thức hóa học là KNO3. Trong quá khứ, con người đã sử dụng nó để làm một số loại ngòi nổ. (Tròi oi học ngoại ngữ vẫn khum thoát khỏi hóa =))))))
Chỉ nghe thấy một tiếng nổ lớn, không biết ngôi nhà nào đã bị nổ tung, âm thanh như song biển quét qua, đám quân Hồ lập tức hoảng sợ, vó ngựa kinh hãy nhảy dựng lên, tiếng kêu thảm thiết truyền đến.
Không chỉ một nơi, liên tiếp mấy tiếng nổ, lửa bùng tràn lan, chỉ trong nháy mắt nuốt chửng cả một khu phố sầm uất.
Ở Đại Yến ngòi nổ không hay được sử dụng đến, đặc biệt là ở khu quân biên giới, càng hiếm thấy.
Nhưng Bắc Tương Quan lấy đâu ra thuốc nổ? Còn chôn nhiều như vậy?!
Như thể đã sớm biết sẽ có ngày hôm nay.
Sắc mặt Sầm Dạ Lan đột nhiên tái nhợt, cả người run lên, Nguyên Trưng dường như đã ý thức được, vừa định nói gì đó, bên tai lại vang lên tiếng động lạ, hắn trợn tròn hai mắt, chỉ kịp nói “cẩn thận”, vô thức nắm lấy cổ tay Sầm Dạ Lan lăn sang một bên, một cửa hàng lụa bên cạnh hắn đột nhiên phát nổ, ngọn lửa bao trùm!
Nguyên Trưng chỉ cảm thấy bên tai ù đi, hai mắt tối lại, phía sau lưng bỏng rát vì lửa nóng, theo bản năng siết chặt tay Sầm Dạ Lan, giấu y dưới thân mình.
Sau vài tiếng cọt kẹt, xà nhà bị nổ tung và đổ sập xuống đất, các tòa nhà xung quanh cũng sụp đổ theo.
“Tướng quân, đã sắp xếp ổn thỏa cho người dân.” phó tướng cung kính báo cáo.
Sầm Diệc nhìn dãy núi phía xa, ánh bình minh vừa ló rạng, phía đông dần bừng sáng, cây cối xơ xác phủ đầy sương sớm, lạnh lẽo hoang vắng. Điều này khiến cho Sầm Diệc nhớ lại ngày ấy tiểu thúc qua đời. Sầm Hi bị thương rất nặng, tổn thương đến phổi và tim, ông cố gắng chống đỡ được nửa tháng, hoa mai trong viện còn chưa kịp nở thì ra đi.
Sầm Hi ho cả đêm, nôn ra máu đen, dù y và Sầm Dạ Lan có lau thế nào cũng không sạch được.
Từ nhỏ đến lớn, Sầm Hi như một vị thần trong mắt Sầm Diệc, ông không chỉ là Chiến thần Bắc Cảnh, mà còn là vị thần trong lòng y, đánh đâu thắng đó, sẽ không bao giờ gục ngã.
Nhưng vị thần của y giờ đang hấp hối và vô cùng đau đớn.
Mười năm sau, mỗi lần nghĩ lại, Sầm Diệc vẫn cảm thấy lòng đau nhói.
Sau đó Sầm Hi đột nhiên tỉnh lại, như là hồi quang phản chiếu, ông mở mắt ra, nhìn Sầm Diệc, khàn giọng nói: “Diệc Nhi, sao con lại khóc?”
Sầm Diệc nghẹn ngào: “Tiểu thúc thúc... Người đừng đi.”
Sầm Hi gắng gượng nở nụ cười, vươn tay sờ sờ gò má Sầm Diệc, ngón tay lạnh như băng cố gắng lau nước mắt cho y: “Đã là một vị tướng quân rồi, sao còn khóc như một đứa trẻ.”
Sầm Diệc rất đau lòng, nước mắt chảy giàn giụa. Sầm Hi khe khẽ thở dài, đưa mắt nhìn Sầm Dạ Lan đang đứng bên giường, thiếu niên từ trước đến giờ vẫn luôn dè dặt, nhưng hai mắt đã đỏ hoe, như đang phải chịu đựng sự đau buồn vô tận.
Sầm Hi nói: “Diệc Nhi, con đi ra ngoài trước, ta có lời muốn nói với A Lan.”
Sầm Diệc giật mình, lông mi còn đọng nước mắt, luống cuống mà nhìn Sầm Hi:“... Tiểu thúc thúc.”
Sầm Hi nhắm mắt lại, nói: “Nghe lời.”
Sầm Diệc quay đầu lại nhìn Sầm Dạ Lan, mím môi, rồi mới đứng lên, chậm rãi lui ra ngoài gian nhà, lúc y đóng cửa lại, Sầm Dạ Lan đã quỳ gối bên giường bệnh, đôi tay gầy gò và xanh xao của Sầm Diệc đang đặt trên vai Sầm Dạ Lan.
Sầm Diệc đứng ở ngoài cửa, trong viện chỉ có Cố Bách Ưu và đồ đệ của ông, mấy người hầu, y và mọi người đều ở bên ngoài. Trời còn chưa sáng hẳn, đêm đông gió lạnh thấu xương, tiếng nghẹn ngào nức nở, khiến cho lòng người phiền muộn.
Sầm Diệc ngơ ngác nhìn mấy cây hồng mai trong sân, cảm thấy toàn thân lạnh toát, khi còn rất nhỏ y đã đi theo Sầm Hi. Thời điểm phụ thân chết trận, Sầm Diệc cũng chỉ mới năm tuổi, nắm lấy áo bào Sầm Hi hỏi, tiểu thúc thúc, cha con đâu rồi?
Sầm Hi mặc đồ trắng, ngồi xổm xuống, nhẹ nhàng nắm tay y, nói:“ Diệc Nhi, cha con đã rời đi và đến một nơi rất xa, sau này con đi theo tiểu thúc, có được không nào?”
Sầm Diệc không hiểu, nói:“ Cha sẽ không trở lại nữa sao?”
Khóe mắt Sầm Hi hơi đỏ lên, giọng có chút đỏ lên:“ Không về nữa, sau này chỉ còn chúng ta...”
Sầm Diệc mở to hai mắt, nhưng y sâu sắc cảm nhận được nỗi buồn của Sầm Diệc, hoảng sợ, vươn tay ôm lấy Sầm Diệc nói:“ Tiểu thúc thúc đừng buồn mà, Diệc Nhi sẽ không hỏi nữa, sau này cũng sẽ bầu bạn với thúc.”
Nháy mắt đã qua nhiều năm, Sầm Diệc nghĩ, tiểu thúc thúc cũng đã bỏ lại y mà đi.
Nhưng mà người tiểu thúc muốn gặp trước lúc lâm chung nhất, lại không phải y.
Ở phía đông tia nắng ban mai xuyên qua màn đêm, Sầm Diệc chỉ nghe thấy tiếng gọi “Cha nuôi” của Sầm Dạ Lan ở trong phòng, đầu óc y đột nhiên trống rỗng, y chợt đẩy cửa ra, vẻ mặt của Sầm Hi rất bình tĩnh, ông đột ngột qua đời.
Cả người Sầm Diệc cứng đờ lại, trong giây lát, y dường như chết lặng.
Sầm Diệc vẫn không thể nào chấp nhận được sự thật Sầm Hi đã ra đi, hàng đêm mơ thấy Sầm Hi, niệm nhiều lần, rồi cũng tự bức điên chính mình luôn. Cả ngày chán nản, mãi đến tận khi Sầm Dạ Lan ấn y trước tấm bia của Sầm Hi, tức giận nói:“ Huynh thật sự muốn để cha nuôi thấy dáng vẻ bây giờ của mình sao?”
Sầm Diệc run lên, áp trán vào tấm bia một lạnh lẽo, như thể chạm vào bàn tay của Sầm Hi, y che mặt, sau đó nhìn lăng mộ Sầm Hi, rồi lại nhìn Sầm Dạ Lan.
Vào thời khắc ấy, trong y xuất hiện một nỗi oán hận đối với Sầm Dạ Lan, từ năm này qua tháng nọ, nó bùng phát như một căn bệnh hiểm nghèo chôn trong xương tủy.
Sầm Diệc hận Sầm Dạ Lan.
Sầm Diệc nhìn mặt trời đỏ sau dãy núi, tự hỏi, liệu đến khi trời sáng hẳn, có phải Sầm Dạ Lan cùng Diên Lặc đã đồng quy vô tận rồi không.
Sầm Diệc biết dù là trong mơ Diên Lặc cũng muốn giết chết Sầm Dạ Lan, Bắc Thương Quan bây giờ là một tòa thành rỗng, cửa thành mở ra, một cơ hội tốt như vậy, hắn sẽ không bỏ qua.
Mãi không thấy Sầm Diệc nói gì, phó tướng lo lắng: “Tướng quân?”
Sầm Diệc nói: “Không có gì.”
Phó tướng nói: “Tiểu thiếu gia đang trốn cùng với người dân, ngài có muốn giữ lại vài huynh đệ...”
Sầm Diệc nhàn nhạt nói: “Không cần.”
Y vừa ngước mắt lên, thì thấy đám con cháu kinh thành đang nhìn mình chằm chằm, tất cả đều là hầu cận của Nguyên Trưng.
Phương Tĩnh nói: “Sầm Diệc, ta nhất định sẽ tố cáo với Bệ hạ những gì ngươi làm ngày hôm nay!”
Sầm Diệc không hề bị lay động, nói: “Ngươi đi đi.”
Phương Tĩnh tức đến nổ phổi đá cục đá, lại thấy một tên trinh sát chạy đến báo cáo: “Tướng quân, chúng tôi phát hiện ở phía trước xuất hiện rất nhiều dấu vó ngựa, nhìn dấu vết, là đám người Hồ.”
Sầm Diệc cau mày: “Người Hồ?”
Phương Tĩnh nói: “Tại sao lại xuất hiện người Hồ ở đây?”
Chỉ lúc sau, sắc mặt Sầm Diệc chợt thay đổi, chửi một câu: “Ngu xuẩn!”
Sầm Diệc đột nhiên xoay người lên ngựa, nói: “Truyền lệnh xuống, nhanh chóng cho quân trở về Hãn Châu.”
“Vâng, thưa tướng quân!”
Không ai ngờ rằng sẽ có phiến quân* ở Bắc Thương Quan.
* Phản quân, quân phản động, quân phản quốc.
Cổng thành mở toang, một lượng lớn lính người Hồ đã tràn vào Bắc Thương Quan, đâu đó lửa bùng lên, không khí tràn ngập mùi khói thuốc súng và mùi máu.
Sầm Dạ Lan và Nguyên Trưng gần như rơi vào tình thế tuyệt vọng.
Mấy ngàn tướng lính bảo vệ thành miễn cưỡng sống sót hơn trăm người, một đường vừa đánh vừa lui. Vốn đang trời đông giá lạnh, thời tiết ở Bắc Cảnh khô hanh, lửa dần bùng cháy lớn.
Đột nhiên một mũi tên lạnh lẽo bắn về phía hắn, Nguyên Trưng trong hiểm gặp may tránh được, mũi tên lạnh lẽo sượt qua má hắn để lại vết thương lành lạnh, hắn dùng ngón tay quệt đi máu đang chảy trên mặt.
Nguyên Trưng hít một hơi, ngẩng đầu nhìn lên, con đường dài rộng, xung quanh là các quán hàng san sát nhau, vốn là một khu phố lớn sầm uất thịnh vượng, nhưng đã bị ngọn lửa chiến tranh tàn phá.
Xa xa là đội quân của người Hồ đang dần tiến đến, người dẫn đầu không phải Diên Lặc vẫn đang vây thành mà là Thư Đan, là Đại vương tử của người Hồ Thư Đan.
Sắc mặt Sầm Dạ Lan rất khó coi, sợi tua đỏ móc ở đầu ngọn trường thương đang cầm trong tay thấm đẫm máu, máu tươi nhỏ xuống tí tách tí tách.
“Tại sao lại là Thư Đan?” Nguyên Trưng vẫn mãi không nghĩ ra, trong thành xuất hiện phản tặc, cửa lớn bị mở ra, cố tình Thư Đan lại có mặt ở đây, mọi thứ diễn ra quá mức trùng hợp. Chiếm được Bắc Thương Quan, giết được Sầm Dạ Lan thì gã sẽ lập được công lớn, Diên Lặc sao có thể dễ dàng để cho Thư Đan chiếm được món hời này.
Nhưng nếu như Thư Đan ở đây, vậy còn Diên Lặc đâu?
Sắc mặt Sầm Dạ Lan trầm tĩnh như nước tù ao đọng, không nói gì, gió lạnh mang theo mùi máu tanh cùng khói thuốc nổ vờn quanh chóp mũi, y nhíu mày, nói: “... Mùi gì vậy?”
Nguyên Trưng giật mình, sắc mặt đột nhiên thay đổi, Sầm Dạ Lan cũng kịp thời phản ứng, hai người đều có chút kinh ngạc: “... Thuốc nổ!”
Không khí tràn ngập mùi diêm tiêu* của thuốc nổ, trộn lẫn trong khói cháy, rất mờ nhạt, nhưng không thể che giấu được với Sầm Dạ Lan và Nguyên Trưng.
* Kali nitrat hay còn gọi là diêm tiêu, là hợp chất hóa học có công thức hóa học là KNO3. Trong quá khứ, con người đã sử dụng nó để làm một số loại ngòi nổ. (Tròi oi học ngoại ngữ vẫn khum thoát khỏi hóa =))))))
Chỉ nghe thấy một tiếng nổ lớn, không biết ngôi nhà nào đã bị nổ tung, âm thanh như song biển quét qua, đám quân Hồ lập tức hoảng sợ, vó ngựa kinh hãy nhảy dựng lên, tiếng kêu thảm thiết truyền đến.
Không chỉ một nơi, liên tiếp mấy tiếng nổ, lửa bùng tràn lan, chỉ trong nháy mắt nuốt chửng cả một khu phố sầm uất.
Ở Đại Yến ngòi nổ không hay được sử dụng đến, đặc biệt là ở khu quân biên giới, càng hiếm thấy.
Nhưng Bắc Tương Quan lấy đâu ra thuốc nổ? Còn chôn nhiều như vậy?!
Như thể đã sớm biết sẽ có ngày hôm nay.
Sắc mặt Sầm Dạ Lan đột nhiên tái nhợt, cả người run lên, Nguyên Trưng dường như đã ý thức được, vừa định nói gì đó, bên tai lại vang lên tiếng động lạ, hắn trợn tròn hai mắt, chỉ kịp nói “cẩn thận”, vô thức nắm lấy cổ tay Sầm Dạ Lan lăn sang một bên, một cửa hàng lụa bên cạnh hắn đột nhiên phát nổ, ngọn lửa bao trùm!
Nguyên Trưng chỉ cảm thấy bên tai ù đi, hai mắt tối lại, phía sau lưng bỏng rát vì lửa nóng, theo bản năng siết chặt tay Sầm Dạ Lan, giấu y dưới thân mình.
Sau vài tiếng cọt kẹt, xà nhà bị nổ tung và đổ sập xuống đất, các tòa nhà xung quanh cũng sụp đổ theo.
/92
|