Cuộc sống ở Lâm Phần cực kỳ thanh bình. A Kiều ban ngày rất bận rộn chẳng có thời gian tưởng nhớ nhưng về đêm, bên cạnh thiếu một người cũng nảy sinh cảm giác không quen. Có nguyện ý thừa nhận hay không thì nàng cũng đích thực là có một chút vương vấn nhớ nhung liên quan đến người kia.
Dù thoáng vấn vương rằng hôm nay y đang ở nơi đâu nhưng cứ nghĩ tới dáng vẻ uy nghiêm không biết đâu là mừng là giận, tựa như có người thiếu y mấy vạn xâu tiền không trả thì nàng lại chợt ngộ ra rằng mình đã lại một lần nhớ tới y. Nàng tự cười nhạo mình. Người đàn ông kia đã mất mười năm để một lần nữa khắc hình ảnh của mình vào tâm hồn nàng. Trong suốt mười năm này, y có khi tức giận, có khi dửng dưng, có khi ác độc, có khi toan tính nhưng lại chưa từng thật sự xúc phạm nàng. Y đã hao tâm tổn trí vì nàng mà thanh tẩy triều đình để nàng được an toàn ở bên cạnh mình. Y đã vì nàng mà xây cung Kiến Chương không có bóng dáng những phi tần khác, một lần nữa tìm về với lời hứa thời niên thiếu. Nàng từng cho rằng có nhiều thứ đã tan vỡ rồi thì sẽ là tan vỡ, cố níu kéo trở về cũng không còn được như xưa. Nhưng bây giờ nàng lại hơi dao động, có những thứ đã được sửa sang lại cho tốt, nếu có thể nhẫn nại thì vẫn sử dụng được. Mười năm tổn thương, có thể dùng mười năm khác để bù đắp lại được sao? Ngay cả có bù đắp lại được thì những việc đã xảy ra cuối cùng vẫn còn tồn tại, chỉ cần ngoảnh đầu là sẽ thấy dấu vết thời gian in hằn trong cuộc đời.
Mà cuộc đời con người có thể có được mấy lần mười năm?
Dần dà, cả hai cũng đều bước đến lúc xế chiều. Nàng cố tự hỏi lòng, có phải mình thật sự muốn cuộc đời sẽ trôi qua như vậy? Thật sự là chỉ một khi y rời bỏ nàng thì nàng mới có thể không luyến lưu nhớ về y. Từ hồi ở cung Cam Tuyền năm xưa, nàng lui một bước để y tiếp cận, sau đó hàng ngày cùng chung sống, không hề phân ly. Đến hôm nay thì rốt cục đã có phân ly, nàng ở cách xa, nhắm mắt lại liền phát hiện rằng mình đã khắc họa rõ ràng từ nét lông mày, bờ môi của y.
“Thừa nhận đi.” Nàng tự nhủ với bản thân. Đúng như y không cách nào phủ nhận rằng y đã từng tàn nhẫn vô tình làm thương tổn nàng, nàng cũng không thể nào phủ nhận rằng trong lòng nàng có sự hiện hữu của y.
Chẳng lẽ chưa từng bị xóa mất?
Cuộc đời làm sao lại đi đến nước này chứ?
Trong những năm đầu mới xuyên không tới đây, nàng ở một khoảng cách thật xa, đề phòng nhìn y, cảnh giác sợ hãi. Nàng cảm thấy tốt nhất hai người nên là hai ngọn núi vĩnh viễn đừng bao giờ gặp nhau cho cuộc sống được an lành. Sau đó, vận mệnh không thể tránh né đã khiến hai người gặp nhau. Nàng không cam lòng, muốn trốn tránh nhưng lại chưa từng chạy thoát khỏi lòng bàn tay của y. Y là Hán Vũ Đế danh tiếng lẫy lừng trong lịch sử, nắm cả thiên hạ này trong tay mà trăm tơ nghìn mối của nàng đều ở trong chốn thiên hạ đó.
Nàng nhớ mãi những đau đớn đã từng thấu đến tận xương cốt, học xù lông như con nhím để nếu y tiếp cận sẽ máu đổ đầm đìa. Dần dần nàng thu mình, học cách bơi lội như cá trong nước, duy trì một khoảng cách như gần như xa, cho rằng với tính tình của mình thì chẳng bao lâu y sẽ có trăng quên đèn, dõi mắt theo những người con gái xinh đẹp khác. Nhưng y vẫn luôn ở bên cạnh nàng, thời gian thấm thoắt thoi đưa thoáng một cái đã qua hết mười năm.
Nàng vật vã suy tư rồi chìm vào giấc ngủ thật say. Đến ngày hôm sau, nàng lười biếng tỉnh giấc. Thượng Quan Linh đi vào, xấu hổ nói: “Hôm qua Linh Nhi khiến cho phu nhân bị phiền phức. Đa tạ ơn phu nhân cứu giúp.”
“Cũng không phải là lỗi của ngươi”, A Kiều mỉm cười nói, “Không cần để trong lòng.”
Thượng Quan Linh an tâm, ánh mắt lại lấp lánh: “Phu nhân thích nghe địch sao?” Nàng thản nhiên đáp, “Ta thuở nhỏ cũng có tập, không dám nhận là giỏi nhưng cũng biết nghe.” “À”, nàng chợt nổi hứng, bèn bảo, “Linh Nhi hãy thổi một khúc nghe cho vui đi.”
Tiếng địch của Thượng Quan Linh tinh tế, chứa đựng tính cách người con gái nhu hòa. Nàng lắng nghe một khúc, bỗng nhiên nói, “Ta cũng muốn học, Linh Nhi hãy dạy cho ta nhé.”
Thượng Quan Linh khá bất ngờ nhưng lập tức mỉm cười đáp, “Phu nhân đã có lệnh, nô tỳ sao dám không tuân lời.”
Nhạc lý có những nét tương tự như nhau, nàng lại từng xem Lưu Triệt tập thuở nhỏ, nên đến buổi tối đã có thể tập tọe thổi được, chỉ là âm thanh rất khó lọt tai. Đám nô tỳ qua lại đều nhíu mày, ngay cả Thượng Quan Linh cũng không còn giữ được nét mặt nhu hòa nữa. Thành Tục ở trong viện chỉ muốn bịt tai lại. Bỗng hắn nghe ngoài cửa có người hỏi, “Phu nhân ở đâu?” Hắn ngẩng đầu nhìn lên, thấy thủ lĩnh đám thị vệ hộ vệ bọn hắn đang dẫn một người đi vào.
Người đó cũng có giọng nói lanh lảnh giống hắn, “Bệ hạ đi Hà Đông tế tự trở về, đang cho lâu thuyền dọc theo sông Phần, sông Thuận xuôi xuống. Người viết thư lệnh cho nô tài dùng khoái mã chạy về trước, giao cho Trần nương nương đích thân mở.”
Thành Tục mừng rỡ, vội vàng đón nhận, chạy vào bẩm: “Phu nhân, bệ hạ có tin về.” A Kiều lặng người, đứng sững, rồi quay đầu nhìn lại. Lúc đó, ánh trăng thanh thoát trải trên mặt đất tỏa sắc như mây khói.
Ngày mười lăm tháng Chín năm Nguyên Đỉnh thứ tư, thánh giá đến Hà Đông tế tự thần Hậu Thổ[1]. Lưu Triệt mặc bộ y phục đế vương bằng gấm đen tôn quý nhất thế gian, thực hiện từng bước một theo trình tự của buổi lễ, dần cảm thấy buồn tẻ. Y lướt nhìn khắp dưới đài nhưng không tìm thấy bóng dáng thân thương. Người đó không ở bên cạnh y.
[1] Thời xưa, địa thần được gọi là Hậu Thổ.
Sau khi tế tự kết thúc, Thái thường Vương Nhạc tiến lên bẩm, “Bệ hạ có muốn ở lại Hà Đông vài ngày…” Hắn chưa dứt lời thì Lưu Triệt đã cắt ngang, “Không! Lần này ra ngoài lâu quá rồi, cần phải nhanh chóng trở về kinh mới được.”
Nghi trượng hoàng đế chỉ dừng lại ở Hà Đông hai ngày thì quay về. Vừa tiến vào lưu vực sông Phần, y liền sai trưng dụng lâu thuyền để mở yến tiệc chiêu đãi bá quan ở trên sông. Quan viên lập tức tập hợp cả lại trên sông Phần, người người chúc tụng bệ hạ thịnh thế anh minh, quốc thái dân an, văn có thể an bang, võ có thể định quốc, trước đánh Hung Nô, sau hàng nước Điền, chiến công muôn đời hiếm thấy. Lưu Triệt phấn chấn, uống vài chén rượu nhưng thấy mọi người vẫn e dè thì đi vào trong khoang thuyền. Dương Đắc Ý bưng nước nóng tới lau mặt cho Hoàng đế, bỗng nghe Lưu Triệt hỏi, “Quan viên ngoài kia như thế nào?”
Y quay đầu lại, cặp mắt đen nhánh tựa ngôi sao suy nhất trong màn đêm sáng lạnh mà cô độc, mím môi như tự hỏi: “Chẳng qua là vài chén rượu mà thôi, trẫm dễ dàng say như vậy sao?”
Dương Đắc Ý làm như không có chuyện gì, khom người nói, “Bá quan văn võ đều uống tận hứng, ca tụng bệ hạ thánh minh.”
Lưu Triệt hừ lạnh một tiếng, ra hiệu cho nội thị đẩy cửa sổ bên khoang thuyền. Gió thu lạnh lẽo trên mặt nước thổi vào khiến y bất giác rùng mình một cái nhưng ngay lập tức tỉnh táo trở lại, cười ha hả, “Cảnh thật đẹp, tiếc là Tư Mã Tương Như đã mất chứ không thì nhất định sẽ có bài phú hay trình lên.”
Dương Đắc Ý nhìn mặt đoán ý, mỉm cười tiến lên phía trước nói, “Dù Tư Mã đại nhân không còn nhưng bên ngoài có không ít sĩ tử cũng giỏi về từ, phú. Chi bằng bệ hạ lệnh cho bọn họ viết xem?”
“Thôi đi”, Lưu Triệt chắp tay nói: “Lúc nào cũng phải dựa vào bọn họ, trẫm học thơ văn từ thuở nhỏ, chẳng lẽ không tự làm được một bài sao?”
“Đúng thế, nô tài vẫn biết tài hoa văn chương của bệ hạ.” Dương Đắc Ý vội vàng khen nịnh rồi sai viên quan phụ trách thư bút chuẩn bị bút, mực và vài tờ giấy thượng hạng trải ra trên án. Mái chèo khua nước sông tạo thành những làn sóng, trên thuyền đàn sáo tưng bừng, ăn uống linh đình, vui sướng náo nhiệt như hoa thêu trên gấm, gió thu thổi qua làm lau sậy ven bờ kêu xào xạc. Khi rời Trường An thì trời mới chớm vào thu, đồng ruộng một màu xanh ngắt, lúc đó A Kiều còn ở bên cạnh y cười hớn hở mà giờ đã là cuối thu. Trên không trung vẳng đến tiếng nhạn kêu, một đàn chim nhạn từ chân trời xa xôi bay về phương nam.
Lưu Triệt chắp tay đứng trước cửa sổ, ngâm nga:
“Gió nổi thu về mây trắng buông,
Cỏ hoa tàn úa nhạn nam phương.”
Y đứng lặng lẽ, tâm trạng từ hoan lạc tột độ dần thoáng chút u buồn. Đã nhiều năm, y ở trên ngôi cao, chí khí hào hùng chưa bao giờ biết quay đầu nên rất ít khi có thời gian mà thương xuân sầu thu. Thuở niên thiếu khi hòa hợp cầm sắt[2] với A Kiều thì trong lòng vẫn có suy nghĩ riêng của mình, sau đó nổi trận lôi đình phế hậu, A Kiều không thể chịu đựng đến nỗi hai người chia cắt.
[2] Cầm sắt: Đàn cầm và đàn sắt.
Thuở niên thiếu, y không hề do dự lựa chọn vì thời cuộc mà vứt bỏ lời hứa lúc còn ngây thơ, chẳng bao giờ nghĩ rằng sẽ có một ngày phải hối hận. Đến tuổi trung niên, y đã có thể một tay sáng tạo ra thế cục của Đại Hán nhưng vẫn một mực giữ nàng bên cạnh, kiên trì hàn gắn vết thương năm đó. Hối hận sao? Bọn họ tự vấn lòng, nếu như được làm lại một lần nữa thì y vẫn không chút do dự làm như cũ. Ở trên ngôi vị đế vương, chút tơ tình nồng thắm quá nhẹ so với vạn dặm núi sông Đại Hán. Nhưng bao đêm ôm người con gái trầm lặng ơ hờ, ngắm nàng trong lúc ngủ say vẫn còn hơi nhíu mày, thì không phải là y không đau lòng. Đau lòng bởi vì y đã từng làm nàng bị thương tổn, vì vậy dễ dàng tha thứ cho vẻ xa cách của nàng.
Từng năm qua đi, y dần cảm nhận rõ ràng rằng người con gái này đã chiếm chỗ trong lòng mình nhưng chỉ không biết nàng ở sâu trong tâm hồn y thế nào. Hằng ngày ở bên nhau tuy cảm thấy vui vẻ nhưng lại không có quá nhiều cảm xúc. Một khi chia lìa mới biết gắn bó như bóng với hình, nhìn mỹ nhân nào cũng thấy nhạt nhẽo. Y vẫn biết mình vô tình nhưng lại không biết một người dù vô tình đến đâu vẫn có một trái tim. Trái tim lạnh lẽo dĩ nhiên sẽ làm cho y có thể bàng quan nhìn sống chết của người đời, nhưng người đó lại ở trong tim y, trừ khi y tự cắt đứt trái tim của mình ra, còn không thì khó mà dứt bỏ. Đế vương có vô tình đến đâu thì cũng là một con người. Một con người vốn sinh ra đã có yêu có hận, có vui có buồn, có suy nghĩ của mình.
“Hoa lan đượm sắc cúc thơm hương,
Nỗi nhớ giai nhân mãi vấn vương.”
Lúc này A Kiều đang làm gì ở Lâm Phần? Trong lòng y cứ vấn vương nhưng miệng vẫn tiếp mạch ngâm,
“Lâu thuyền đi dọc ở sông Phần
Ở giữa dòng ngang sóng bạc dâng
Tiêu trống hòa ngân cùng tiếng hát
Trong vui cực độ thấy thương thân
Trẻ trung mấy nỗi, già lân đến rồi!”
Thời gian là thứ mà không ai có thể cưỡng lại. Lúc tuổi thiếu niên bừng bừng chí khí nên không xem trọng, rồi y lên ngôi vị đế vương nên chẳng hiểu ra. Đến hôm nay đã dần tới tuổi “tứ thập nhi bất hoặc”[3], lại cảm khái trước cảnh sắc tươi đẹp đang nhẹ nhàng trôi qua trong khi bọn họ tuy đang có vẻ đối xử với nhau như thời niên thiếu cầm sắt hòa hợp, nhưng đều biết rõ chẳng thể nào quay lại như lúc ban đầu. Tráng chí thời tuổi trẻ dần cũng nhạt đi, mái tóc anh hùng rồi cũng điểm sương, mỹ nhân đẹp đến đâu khi nằm xuống cũng chỉ là một nắm xương trắng. Đó là nỗi bi thương của kiếp người mà đế vương, anh hùng hay mỹ nhân đều chẳng thể làm được.
[3] “Tứ thập nhi bất hoặc” là một câu trong Luận ngữ, có nghĩa là khi người ta tới bốn mươi tuổi mới có thể hiểu thấu mọi sự lý trong thiên hạ, phân biệt được việc phải hay trái cũng như hiểu được ai là người tốt hay xấu, phân biệt được những ai là người chân chính yêu nước thương nòi và biết được cái gì nên làm hay không.
Câu từ bi tráng hùng hồn, viên quan phụ trách thư bút động tâm, đứng dậy chắp tay hỏi, “Bệ hạ, bài từ này đặt tên là gì?”
Lưu Triệt trầm ngâm một lát rồi cảm khái: “Đặt tên là Thu phong từ đi.”
Quận thủ Tào Minh đứng bên ngoài khoang thuyền nín thở lắng nghe Lưu Triệt ngâm thơ, tiến vào bái chào: “Thần tham kiến bệ hạ”, sau đó tán dương, “Hôm nay nghe bệ hạ ngâm Thu phong từ, mới biết tài học của bệ hạ khiến bậc đại gia từ phú như Tư Mã Tương Như cũng phải hổ thẹn.” Hắn nói vậy thật sự nịnh nọt quá mức, Lưu Triệt nghe xong không vui, cười nhạt hỏi, “Trẫm hỏi ngươi, vùng Trì Hạ của ngươi thế nào?”
Tào Minh vội vàng quỳ xuống, cung kính bẩm, “Thần theo ý chỉ của bệ hạ làm việc, mọi việc của Trì Hạ đều tốt. Chỉ là”, hắn do dự nói, “nếu sông Phần dâng nước gây họa thì dân chúng sẽ trôi dạt khắp nơi.”
Lũ lụt sông Hoàng Hà vốn là căn bệnh bao đời nay của Đại Hán. Lưu Triệt nhíu mày, nói: “Ngươi lui xuống trước đi.”
“Tuân mệnh”, Tào Minh khom người lui ra, nghĩ đến hai câu Lưu Triệt vừa ngâm: “Hoa lan đượm sắc cúc thơm hương, nỗi nhớ giai nhân mãi vấn vương”, thì như hiểu ra điều gì đó, bèn vội vàng sai thuộc cấp xuống thuyền mời mấy thiếu nữ con nhà gia giáo đẹp nhất ở Trì Hạ đến, dặn dò, “Nếu được bệ hạ ưu ái là vinh hạnh của ta mà cũng là vinh hạnh của các ngươi.” Mấy thiếu nữ chẳng qua là con gái những nhà bậc trung, có cơ hội được hầu hạ quân vương đều không nén nổi vui mừng, ai nấy đỏ bừng mặt, thi lễ nói, “Đa tạ Tào đại nhân.”
Thị vệ bảo vệ bệ hạ hơi lộ vẻ kỳ lạ nhưng không có ý kiến của bề trên nên cũng không tiện ngăn cản việc này. Tào Minh dẫn mấy thiếu nữ đi tới trước khoang thuyền, đang định bẩm báo thì chợt nghe một giọng nữ trong trẻo từ phía sau truyền đến: “Các ngươi là ai?” Một thiếu nữ tôn quý chừng mười bốn, mười lăm tuổi đi vòng từ khoang sau thuyền ra, cực kỳ xinh đẹp, làm lu mờ mấy cô gái mà Tào Minh đã lựa chọn kỹ lưỡng.
“Tham kiến Công chúa Duyệt Trữ”, cung nhân bên cạnh nhất loạt hành lễ.
Tào Minh cũng bái lạy. Trước mặt Công chúa, hắn không dám nói lung tung, chỉ có thể thành thật: “Thấy bệ hạ đi đường mệt nhọc nên thần đặc biệt tuyển chọn mấy dân nữ nhanh nhẹn hầu hạ.”
“Miễn đi.” Lưu Sơ lạnh nhạt, “Nô tỳ bên cạnh phụ hoàng rất nhiều, không cần phải làm phiền dân chúng.”
“Vậy…”, Tào Minh thầm kêu khổ trong lòng, không biết vị công chúa này không hiểu chuyện hay cố tình ngăn trở. Hắn nghe nói Hoàng đế đi lần này không mang theo phi tử nào nên lường trước chuyện sẽ thành công. Dù sao chẳng mấy người đàn ông có thể dễ dàng cự tuyệt thiếu nữ tuyệt sắc, nào ngờ lại có người ngăn cản. Người này cũng không phải phi tần được sủng ái nào mà lại là một công chúa. Công chúa có thể được bệ hạ dẫn theo thì chắc là được sủng ái vô cùng. Nhưng chuyện này cũng không xung đột lợi ích với công chúa, chẳng lẽ lại có công chúa nào dám mạo hiểm phạm tới quyền uy của phụ vương?
“Nô tài tham kiến Công chúa Duyệt Trữ.” Dương Đắc Ý mở cửa khoang thuyền rồi bước ra ngoài, thầm lấy làm buồn cười. Hắn biết Hoàng đế hôm nay đang nhớ Trần nương nương, quá nửa là không muốn gặp những cô gái này nên có lòng nhắc nhở Tào Minh: “Bệ hạ viết thư và bảo nô tài chọn người giỏi cưỡi ngựa đưa tới Lâm Phần để Trần nương nương tự tay mở xem.”
Lưu Sơ chớp mắt, nói: “Dương công công chờ đã, ta cũng viết một phong thư, người đưa luôn cho mẫu thân của ta nhé.”
“Nô tài tuân lệnh Công chúa”, Dương Đắc Ý gật đầu nói: “Kính xin Công chúa mau viết đi.”
Lưu Sơ muốn rời đi nhưng lại nhìn Tào Minh, cắn môi ra vẻ khó khăn. Dương Đắc Ý cười, nói: “Nô tài biết rồi.” Tào Minh mặt trắng bệch, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, biết lần này lợn lành chữa thành lợn què rồi.
“Tào đại nhân”, Dương Đắc Ý mỉm cười nói, “Nếu không có chuyện gì thì mời trở về đi thôi.”
Khoái mã truyền thư chưa đầy nửa ngày đã đến Lâm Phần. Trần A Kiều nhận thư, mở ra xem thì thấy là giấy vân tiên thượng hạng, nét chữ thanh thoát, bút lực mạnh mẽ như muốn thoát khỏi tay nhưng bút pháp lại có chút mềm mại, cho thấy tình cảm dịu dàng khi đó của người viết.
“Khanh[4] thấy chữ như gặp mặt.
[4] “Khanh” là cách xưng hô giữa vợ và chồng ở thời cổ đại, thể hiện tình cảm thân thiết gắn bó giữa hai người.
Tháng Chín gió mạnh, ta mở yến trên sông Phần chiêu đãi bá quan. Nhìn gió thu thổi làm rơi lá, nhạn bắc di cư xuống phương nam, lòng có cảm nhận viết ra một bài từ gửi khanh phương xa.
Đây chính là bài Thu phong từ nổi danh trong lịch sử.
“Trong vui cực độ thấy thương thân
Trẻ trung mấy nỗi, già lân đến rồi!”
A Kiều ngâm hai lần, tâm hồn rung động đến mức phải thầm trấn tĩnh rồi mới mở tiếp thư của Lưu Sơ. Thư của Lưu Sơ vẫn luôn chân thành hồn nhiên, viết vội mấy câu nhớ nhung, cuối cùng lại thêm một câu nói hôm nay vừa cản được một đám nữ nhân định mê hoặc phụ hoàng. Nàng không biết nên khóc hay cười, dặn dò Thành Tục: “Ngươi cho người mang thư nghỉ ngơi một đêm, chờ ta viết xong thư thì bảo hắn mang về.” Thành Tục an tâm lui ra, nàng cũng không hơi đâu mà nghĩ về chuyện này, cứ trăn trở suy xét tâm trạng của mình.
Thượng Quan Linh liếc thấy vậy liền đứng dậy tươi cười hỏi, “Nương nương viết thư trả lời bệ hạ, không biết Linh Nhi có được vinh hạnh mài mực cho nương nương không?”
A Kiều khẽ gật đầu đồng ý, lấy tờ giấy hoa tiên thượng hạng đặt trên án, cầm bút lên nhưng trong thoáng chốc lại thẫn thờ không biết viết gì. Người ấy đang có lý tưởng hào hùng lại viết ra bài từ phú cám cảnh tuổi hoa niên như vậy, thật sự khiến người khác phải tìm hiểu cảm nhận trong đó. Trước kia nàng đã từng đọc đoạn mở đầu của bài Thu phong từ khá nổi tiếng này, ngoài sự kinh ngạc trước một vị hoàng đế bậc nhất thiên cổ lại có tài văn chương không kém, thì cũng chỉ coi đó là một bài thơ bình thường. Hôm nay Lưu Triệt gửi nó cho mình, từng câu từng chữ đều liên quan tới bản thân mình, thì lòng cảm thấy ngọt ngào, tình cảm trào dâng, hoàn toàn khác trước.
Nước trong nghiên đã hòa tan mực đen nhánh, nhưng Thượng Quan Linh vẫn kiên nhẫn mài tiếp. Cô nhìn A Kiều đang nghiêng nghiêng khuôn mặt, bạo gan hỏi, “Nương nương yêu bệ hạ lắm sao?”
Nàng nghe vậy thì nhìn sững vào Thượng Quan Linh. Nét mặt thiếu nữ này có vẻ tò mò hiếu kỳ rất tự nhiên, thuần phác mà trầm tĩnh.
“Tại sao lại hỏi như vậy chứ?” Ánh nến chập chờn lay động theo làn gió thu thổi vào qua cửa sổ, câu hỏi của nàng cũng nhẹ như ánh nến.
“Bởi vì”, Thượng Quan Linh mím môi, cười vẻ ngượng ngùng, “Vẻ mặt nương nương rất dịu dàng.”
Yêu ư? Nàng mím môi cười, trầm ngầm một lát rồi nắn nót viết thư, bỏ vào phong bao, dán lại rồi dặn, “Sáng sớm mai giao cho người nội thị đưa thư.”
Ngoài song cửa, đêm thu vẫn chưa tàn.
Dù thoáng vấn vương rằng hôm nay y đang ở nơi đâu nhưng cứ nghĩ tới dáng vẻ uy nghiêm không biết đâu là mừng là giận, tựa như có người thiếu y mấy vạn xâu tiền không trả thì nàng lại chợt ngộ ra rằng mình đã lại một lần nhớ tới y. Nàng tự cười nhạo mình. Người đàn ông kia đã mất mười năm để một lần nữa khắc hình ảnh của mình vào tâm hồn nàng. Trong suốt mười năm này, y có khi tức giận, có khi dửng dưng, có khi ác độc, có khi toan tính nhưng lại chưa từng thật sự xúc phạm nàng. Y đã hao tâm tổn trí vì nàng mà thanh tẩy triều đình để nàng được an toàn ở bên cạnh mình. Y đã vì nàng mà xây cung Kiến Chương không có bóng dáng những phi tần khác, một lần nữa tìm về với lời hứa thời niên thiếu. Nàng từng cho rằng có nhiều thứ đã tan vỡ rồi thì sẽ là tan vỡ, cố níu kéo trở về cũng không còn được như xưa. Nhưng bây giờ nàng lại hơi dao động, có những thứ đã được sửa sang lại cho tốt, nếu có thể nhẫn nại thì vẫn sử dụng được. Mười năm tổn thương, có thể dùng mười năm khác để bù đắp lại được sao? Ngay cả có bù đắp lại được thì những việc đã xảy ra cuối cùng vẫn còn tồn tại, chỉ cần ngoảnh đầu là sẽ thấy dấu vết thời gian in hằn trong cuộc đời.
Mà cuộc đời con người có thể có được mấy lần mười năm?
Dần dà, cả hai cũng đều bước đến lúc xế chiều. Nàng cố tự hỏi lòng, có phải mình thật sự muốn cuộc đời sẽ trôi qua như vậy? Thật sự là chỉ một khi y rời bỏ nàng thì nàng mới có thể không luyến lưu nhớ về y. Từ hồi ở cung Cam Tuyền năm xưa, nàng lui một bước để y tiếp cận, sau đó hàng ngày cùng chung sống, không hề phân ly. Đến hôm nay thì rốt cục đã có phân ly, nàng ở cách xa, nhắm mắt lại liền phát hiện rằng mình đã khắc họa rõ ràng từ nét lông mày, bờ môi của y.
“Thừa nhận đi.” Nàng tự nhủ với bản thân. Đúng như y không cách nào phủ nhận rằng y đã từng tàn nhẫn vô tình làm thương tổn nàng, nàng cũng không thể nào phủ nhận rằng trong lòng nàng có sự hiện hữu của y.
Chẳng lẽ chưa từng bị xóa mất?
Cuộc đời làm sao lại đi đến nước này chứ?
Trong những năm đầu mới xuyên không tới đây, nàng ở một khoảng cách thật xa, đề phòng nhìn y, cảnh giác sợ hãi. Nàng cảm thấy tốt nhất hai người nên là hai ngọn núi vĩnh viễn đừng bao giờ gặp nhau cho cuộc sống được an lành. Sau đó, vận mệnh không thể tránh né đã khiến hai người gặp nhau. Nàng không cam lòng, muốn trốn tránh nhưng lại chưa từng chạy thoát khỏi lòng bàn tay của y. Y là Hán Vũ Đế danh tiếng lẫy lừng trong lịch sử, nắm cả thiên hạ này trong tay mà trăm tơ nghìn mối của nàng đều ở trong chốn thiên hạ đó.
Nàng nhớ mãi những đau đớn đã từng thấu đến tận xương cốt, học xù lông như con nhím để nếu y tiếp cận sẽ máu đổ đầm đìa. Dần dần nàng thu mình, học cách bơi lội như cá trong nước, duy trì một khoảng cách như gần như xa, cho rằng với tính tình của mình thì chẳng bao lâu y sẽ có trăng quên đèn, dõi mắt theo những người con gái xinh đẹp khác. Nhưng y vẫn luôn ở bên cạnh nàng, thời gian thấm thoắt thoi đưa thoáng một cái đã qua hết mười năm.
Nàng vật vã suy tư rồi chìm vào giấc ngủ thật say. Đến ngày hôm sau, nàng lười biếng tỉnh giấc. Thượng Quan Linh đi vào, xấu hổ nói: “Hôm qua Linh Nhi khiến cho phu nhân bị phiền phức. Đa tạ ơn phu nhân cứu giúp.”
“Cũng không phải là lỗi của ngươi”, A Kiều mỉm cười nói, “Không cần để trong lòng.”
Thượng Quan Linh an tâm, ánh mắt lại lấp lánh: “Phu nhân thích nghe địch sao?” Nàng thản nhiên đáp, “Ta thuở nhỏ cũng có tập, không dám nhận là giỏi nhưng cũng biết nghe.” “À”, nàng chợt nổi hứng, bèn bảo, “Linh Nhi hãy thổi một khúc nghe cho vui đi.”
Tiếng địch của Thượng Quan Linh tinh tế, chứa đựng tính cách người con gái nhu hòa. Nàng lắng nghe một khúc, bỗng nhiên nói, “Ta cũng muốn học, Linh Nhi hãy dạy cho ta nhé.”
Thượng Quan Linh khá bất ngờ nhưng lập tức mỉm cười đáp, “Phu nhân đã có lệnh, nô tỳ sao dám không tuân lời.”
Nhạc lý có những nét tương tự như nhau, nàng lại từng xem Lưu Triệt tập thuở nhỏ, nên đến buổi tối đã có thể tập tọe thổi được, chỉ là âm thanh rất khó lọt tai. Đám nô tỳ qua lại đều nhíu mày, ngay cả Thượng Quan Linh cũng không còn giữ được nét mặt nhu hòa nữa. Thành Tục ở trong viện chỉ muốn bịt tai lại. Bỗng hắn nghe ngoài cửa có người hỏi, “Phu nhân ở đâu?” Hắn ngẩng đầu nhìn lên, thấy thủ lĩnh đám thị vệ hộ vệ bọn hắn đang dẫn một người đi vào.
Người đó cũng có giọng nói lanh lảnh giống hắn, “Bệ hạ đi Hà Đông tế tự trở về, đang cho lâu thuyền dọc theo sông Phần, sông Thuận xuôi xuống. Người viết thư lệnh cho nô tài dùng khoái mã chạy về trước, giao cho Trần nương nương đích thân mở.”
Thành Tục mừng rỡ, vội vàng đón nhận, chạy vào bẩm: “Phu nhân, bệ hạ có tin về.” A Kiều lặng người, đứng sững, rồi quay đầu nhìn lại. Lúc đó, ánh trăng thanh thoát trải trên mặt đất tỏa sắc như mây khói.
Ngày mười lăm tháng Chín năm Nguyên Đỉnh thứ tư, thánh giá đến Hà Đông tế tự thần Hậu Thổ[1]. Lưu Triệt mặc bộ y phục đế vương bằng gấm đen tôn quý nhất thế gian, thực hiện từng bước một theo trình tự của buổi lễ, dần cảm thấy buồn tẻ. Y lướt nhìn khắp dưới đài nhưng không tìm thấy bóng dáng thân thương. Người đó không ở bên cạnh y.
[1] Thời xưa, địa thần được gọi là Hậu Thổ.
Sau khi tế tự kết thúc, Thái thường Vương Nhạc tiến lên bẩm, “Bệ hạ có muốn ở lại Hà Đông vài ngày…” Hắn chưa dứt lời thì Lưu Triệt đã cắt ngang, “Không! Lần này ra ngoài lâu quá rồi, cần phải nhanh chóng trở về kinh mới được.”
Nghi trượng hoàng đế chỉ dừng lại ở Hà Đông hai ngày thì quay về. Vừa tiến vào lưu vực sông Phần, y liền sai trưng dụng lâu thuyền để mở yến tiệc chiêu đãi bá quan ở trên sông. Quan viên lập tức tập hợp cả lại trên sông Phần, người người chúc tụng bệ hạ thịnh thế anh minh, quốc thái dân an, văn có thể an bang, võ có thể định quốc, trước đánh Hung Nô, sau hàng nước Điền, chiến công muôn đời hiếm thấy. Lưu Triệt phấn chấn, uống vài chén rượu nhưng thấy mọi người vẫn e dè thì đi vào trong khoang thuyền. Dương Đắc Ý bưng nước nóng tới lau mặt cho Hoàng đế, bỗng nghe Lưu Triệt hỏi, “Quan viên ngoài kia như thế nào?”
Y quay đầu lại, cặp mắt đen nhánh tựa ngôi sao suy nhất trong màn đêm sáng lạnh mà cô độc, mím môi như tự hỏi: “Chẳng qua là vài chén rượu mà thôi, trẫm dễ dàng say như vậy sao?”
Dương Đắc Ý làm như không có chuyện gì, khom người nói, “Bá quan văn võ đều uống tận hứng, ca tụng bệ hạ thánh minh.”
Lưu Triệt hừ lạnh một tiếng, ra hiệu cho nội thị đẩy cửa sổ bên khoang thuyền. Gió thu lạnh lẽo trên mặt nước thổi vào khiến y bất giác rùng mình một cái nhưng ngay lập tức tỉnh táo trở lại, cười ha hả, “Cảnh thật đẹp, tiếc là Tư Mã Tương Như đã mất chứ không thì nhất định sẽ có bài phú hay trình lên.”
Dương Đắc Ý nhìn mặt đoán ý, mỉm cười tiến lên phía trước nói, “Dù Tư Mã đại nhân không còn nhưng bên ngoài có không ít sĩ tử cũng giỏi về từ, phú. Chi bằng bệ hạ lệnh cho bọn họ viết xem?”
“Thôi đi”, Lưu Triệt chắp tay nói: “Lúc nào cũng phải dựa vào bọn họ, trẫm học thơ văn từ thuở nhỏ, chẳng lẽ không tự làm được một bài sao?”
“Đúng thế, nô tài vẫn biết tài hoa văn chương của bệ hạ.” Dương Đắc Ý vội vàng khen nịnh rồi sai viên quan phụ trách thư bút chuẩn bị bút, mực và vài tờ giấy thượng hạng trải ra trên án. Mái chèo khua nước sông tạo thành những làn sóng, trên thuyền đàn sáo tưng bừng, ăn uống linh đình, vui sướng náo nhiệt như hoa thêu trên gấm, gió thu thổi qua làm lau sậy ven bờ kêu xào xạc. Khi rời Trường An thì trời mới chớm vào thu, đồng ruộng một màu xanh ngắt, lúc đó A Kiều còn ở bên cạnh y cười hớn hở mà giờ đã là cuối thu. Trên không trung vẳng đến tiếng nhạn kêu, một đàn chim nhạn từ chân trời xa xôi bay về phương nam.
Lưu Triệt chắp tay đứng trước cửa sổ, ngâm nga:
“Gió nổi thu về mây trắng buông,
Cỏ hoa tàn úa nhạn nam phương.”
Y đứng lặng lẽ, tâm trạng từ hoan lạc tột độ dần thoáng chút u buồn. Đã nhiều năm, y ở trên ngôi cao, chí khí hào hùng chưa bao giờ biết quay đầu nên rất ít khi có thời gian mà thương xuân sầu thu. Thuở niên thiếu khi hòa hợp cầm sắt[2] với A Kiều thì trong lòng vẫn có suy nghĩ riêng của mình, sau đó nổi trận lôi đình phế hậu, A Kiều không thể chịu đựng đến nỗi hai người chia cắt.
[2] Cầm sắt: Đàn cầm và đàn sắt.
Thuở niên thiếu, y không hề do dự lựa chọn vì thời cuộc mà vứt bỏ lời hứa lúc còn ngây thơ, chẳng bao giờ nghĩ rằng sẽ có một ngày phải hối hận. Đến tuổi trung niên, y đã có thể một tay sáng tạo ra thế cục của Đại Hán nhưng vẫn một mực giữ nàng bên cạnh, kiên trì hàn gắn vết thương năm đó. Hối hận sao? Bọn họ tự vấn lòng, nếu như được làm lại một lần nữa thì y vẫn không chút do dự làm như cũ. Ở trên ngôi vị đế vương, chút tơ tình nồng thắm quá nhẹ so với vạn dặm núi sông Đại Hán. Nhưng bao đêm ôm người con gái trầm lặng ơ hờ, ngắm nàng trong lúc ngủ say vẫn còn hơi nhíu mày, thì không phải là y không đau lòng. Đau lòng bởi vì y đã từng làm nàng bị thương tổn, vì vậy dễ dàng tha thứ cho vẻ xa cách của nàng.
Từng năm qua đi, y dần cảm nhận rõ ràng rằng người con gái này đã chiếm chỗ trong lòng mình nhưng chỉ không biết nàng ở sâu trong tâm hồn y thế nào. Hằng ngày ở bên nhau tuy cảm thấy vui vẻ nhưng lại không có quá nhiều cảm xúc. Một khi chia lìa mới biết gắn bó như bóng với hình, nhìn mỹ nhân nào cũng thấy nhạt nhẽo. Y vẫn biết mình vô tình nhưng lại không biết một người dù vô tình đến đâu vẫn có một trái tim. Trái tim lạnh lẽo dĩ nhiên sẽ làm cho y có thể bàng quan nhìn sống chết của người đời, nhưng người đó lại ở trong tim y, trừ khi y tự cắt đứt trái tim của mình ra, còn không thì khó mà dứt bỏ. Đế vương có vô tình đến đâu thì cũng là một con người. Một con người vốn sinh ra đã có yêu có hận, có vui có buồn, có suy nghĩ của mình.
“Hoa lan đượm sắc cúc thơm hương,
Nỗi nhớ giai nhân mãi vấn vương.”
Lúc này A Kiều đang làm gì ở Lâm Phần? Trong lòng y cứ vấn vương nhưng miệng vẫn tiếp mạch ngâm,
“Lâu thuyền đi dọc ở sông Phần
Ở giữa dòng ngang sóng bạc dâng
Tiêu trống hòa ngân cùng tiếng hát
Trong vui cực độ thấy thương thân
Trẻ trung mấy nỗi, già lân đến rồi!”
Thời gian là thứ mà không ai có thể cưỡng lại. Lúc tuổi thiếu niên bừng bừng chí khí nên không xem trọng, rồi y lên ngôi vị đế vương nên chẳng hiểu ra. Đến hôm nay đã dần tới tuổi “tứ thập nhi bất hoặc”[3], lại cảm khái trước cảnh sắc tươi đẹp đang nhẹ nhàng trôi qua trong khi bọn họ tuy đang có vẻ đối xử với nhau như thời niên thiếu cầm sắt hòa hợp, nhưng đều biết rõ chẳng thể nào quay lại như lúc ban đầu. Tráng chí thời tuổi trẻ dần cũng nhạt đi, mái tóc anh hùng rồi cũng điểm sương, mỹ nhân đẹp đến đâu khi nằm xuống cũng chỉ là một nắm xương trắng. Đó là nỗi bi thương của kiếp người mà đế vương, anh hùng hay mỹ nhân đều chẳng thể làm được.
[3] “Tứ thập nhi bất hoặc” là một câu trong Luận ngữ, có nghĩa là khi người ta tới bốn mươi tuổi mới có thể hiểu thấu mọi sự lý trong thiên hạ, phân biệt được việc phải hay trái cũng như hiểu được ai là người tốt hay xấu, phân biệt được những ai là người chân chính yêu nước thương nòi và biết được cái gì nên làm hay không.
Câu từ bi tráng hùng hồn, viên quan phụ trách thư bút động tâm, đứng dậy chắp tay hỏi, “Bệ hạ, bài từ này đặt tên là gì?”
Lưu Triệt trầm ngâm một lát rồi cảm khái: “Đặt tên là Thu phong từ đi.”
Quận thủ Tào Minh đứng bên ngoài khoang thuyền nín thở lắng nghe Lưu Triệt ngâm thơ, tiến vào bái chào: “Thần tham kiến bệ hạ”, sau đó tán dương, “Hôm nay nghe bệ hạ ngâm Thu phong từ, mới biết tài học của bệ hạ khiến bậc đại gia từ phú như Tư Mã Tương Như cũng phải hổ thẹn.” Hắn nói vậy thật sự nịnh nọt quá mức, Lưu Triệt nghe xong không vui, cười nhạt hỏi, “Trẫm hỏi ngươi, vùng Trì Hạ của ngươi thế nào?”
Tào Minh vội vàng quỳ xuống, cung kính bẩm, “Thần theo ý chỉ của bệ hạ làm việc, mọi việc của Trì Hạ đều tốt. Chỉ là”, hắn do dự nói, “nếu sông Phần dâng nước gây họa thì dân chúng sẽ trôi dạt khắp nơi.”
Lũ lụt sông Hoàng Hà vốn là căn bệnh bao đời nay của Đại Hán. Lưu Triệt nhíu mày, nói: “Ngươi lui xuống trước đi.”
“Tuân mệnh”, Tào Minh khom người lui ra, nghĩ đến hai câu Lưu Triệt vừa ngâm: “Hoa lan đượm sắc cúc thơm hương, nỗi nhớ giai nhân mãi vấn vương”, thì như hiểu ra điều gì đó, bèn vội vàng sai thuộc cấp xuống thuyền mời mấy thiếu nữ con nhà gia giáo đẹp nhất ở Trì Hạ đến, dặn dò, “Nếu được bệ hạ ưu ái là vinh hạnh của ta mà cũng là vinh hạnh của các ngươi.” Mấy thiếu nữ chẳng qua là con gái những nhà bậc trung, có cơ hội được hầu hạ quân vương đều không nén nổi vui mừng, ai nấy đỏ bừng mặt, thi lễ nói, “Đa tạ Tào đại nhân.”
Thị vệ bảo vệ bệ hạ hơi lộ vẻ kỳ lạ nhưng không có ý kiến của bề trên nên cũng không tiện ngăn cản việc này. Tào Minh dẫn mấy thiếu nữ đi tới trước khoang thuyền, đang định bẩm báo thì chợt nghe một giọng nữ trong trẻo từ phía sau truyền đến: “Các ngươi là ai?” Một thiếu nữ tôn quý chừng mười bốn, mười lăm tuổi đi vòng từ khoang sau thuyền ra, cực kỳ xinh đẹp, làm lu mờ mấy cô gái mà Tào Minh đã lựa chọn kỹ lưỡng.
“Tham kiến Công chúa Duyệt Trữ”, cung nhân bên cạnh nhất loạt hành lễ.
Tào Minh cũng bái lạy. Trước mặt Công chúa, hắn không dám nói lung tung, chỉ có thể thành thật: “Thấy bệ hạ đi đường mệt nhọc nên thần đặc biệt tuyển chọn mấy dân nữ nhanh nhẹn hầu hạ.”
“Miễn đi.” Lưu Sơ lạnh nhạt, “Nô tỳ bên cạnh phụ hoàng rất nhiều, không cần phải làm phiền dân chúng.”
“Vậy…”, Tào Minh thầm kêu khổ trong lòng, không biết vị công chúa này không hiểu chuyện hay cố tình ngăn trở. Hắn nghe nói Hoàng đế đi lần này không mang theo phi tử nào nên lường trước chuyện sẽ thành công. Dù sao chẳng mấy người đàn ông có thể dễ dàng cự tuyệt thiếu nữ tuyệt sắc, nào ngờ lại có người ngăn cản. Người này cũng không phải phi tần được sủng ái nào mà lại là một công chúa. Công chúa có thể được bệ hạ dẫn theo thì chắc là được sủng ái vô cùng. Nhưng chuyện này cũng không xung đột lợi ích với công chúa, chẳng lẽ lại có công chúa nào dám mạo hiểm phạm tới quyền uy của phụ vương?
“Nô tài tham kiến Công chúa Duyệt Trữ.” Dương Đắc Ý mở cửa khoang thuyền rồi bước ra ngoài, thầm lấy làm buồn cười. Hắn biết Hoàng đế hôm nay đang nhớ Trần nương nương, quá nửa là không muốn gặp những cô gái này nên có lòng nhắc nhở Tào Minh: “Bệ hạ viết thư và bảo nô tài chọn người giỏi cưỡi ngựa đưa tới Lâm Phần để Trần nương nương tự tay mở xem.”
Lưu Sơ chớp mắt, nói: “Dương công công chờ đã, ta cũng viết một phong thư, người đưa luôn cho mẫu thân của ta nhé.”
“Nô tài tuân lệnh Công chúa”, Dương Đắc Ý gật đầu nói: “Kính xin Công chúa mau viết đi.”
Lưu Sơ muốn rời đi nhưng lại nhìn Tào Minh, cắn môi ra vẻ khó khăn. Dương Đắc Ý cười, nói: “Nô tài biết rồi.” Tào Minh mặt trắng bệch, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, biết lần này lợn lành chữa thành lợn què rồi.
“Tào đại nhân”, Dương Đắc Ý mỉm cười nói, “Nếu không có chuyện gì thì mời trở về đi thôi.”
Khoái mã truyền thư chưa đầy nửa ngày đã đến Lâm Phần. Trần A Kiều nhận thư, mở ra xem thì thấy là giấy vân tiên thượng hạng, nét chữ thanh thoát, bút lực mạnh mẽ như muốn thoát khỏi tay nhưng bút pháp lại có chút mềm mại, cho thấy tình cảm dịu dàng khi đó của người viết.
“Khanh[4] thấy chữ như gặp mặt.
[4] “Khanh” là cách xưng hô giữa vợ và chồng ở thời cổ đại, thể hiện tình cảm thân thiết gắn bó giữa hai người.
Tháng Chín gió mạnh, ta mở yến trên sông Phần chiêu đãi bá quan. Nhìn gió thu thổi làm rơi lá, nhạn bắc di cư xuống phương nam, lòng có cảm nhận viết ra một bài từ gửi khanh phương xa.
Đây chính là bài Thu phong từ nổi danh trong lịch sử.
“Trong vui cực độ thấy thương thân
Trẻ trung mấy nỗi, già lân đến rồi!”
A Kiều ngâm hai lần, tâm hồn rung động đến mức phải thầm trấn tĩnh rồi mới mở tiếp thư của Lưu Sơ. Thư của Lưu Sơ vẫn luôn chân thành hồn nhiên, viết vội mấy câu nhớ nhung, cuối cùng lại thêm một câu nói hôm nay vừa cản được một đám nữ nhân định mê hoặc phụ hoàng. Nàng không biết nên khóc hay cười, dặn dò Thành Tục: “Ngươi cho người mang thư nghỉ ngơi một đêm, chờ ta viết xong thư thì bảo hắn mang về.” Thành Tục an tâm lui ra, nàng cũng không hơi đâu mà nghĩ về chuyện này, cứ trăn trở suy xét tâm trạng của mình.
Thượng Quan Linh liếc thấy vậy liền đứng dậy tươi cười hỏi, “Nương nương viết thư trả lời bệ hạ, không biết Linh Nhi có được vinh hạnh mài mực cho nương nương không?”
A Kiều khẽ gật đầu đồng ý, lấy tờ giấy hoa tiên thượng hạng đặt trên án, cầm bút lên nhưng trong thoáng chốc lại thẫn thờ không biết viết gì. Người ấy đang có lý tưởng hào hùng lại viết ra bài từ phú cám cảnh tuổi hoa niên như vậy, thật sự khiến người khác phải tìm hiểu cảm nhận trong đó. Trước kia nàng đã từng đọc đoạn mở đầu của bài Thu phong từ khá nổi tiếng này, ngoài sự kinh ngạc trước một vị hoàng đế bậc nhất thiên cổ lại có tài văn chương không kém, thì cũng chỉ coi đó là một bài thơ bình thường. Hôm nay Lưu Triệt gửi nó cho mình, từng câu từng chữ đều liên quan tới bản thân mình, thì lòng cảm thấy ngọt ngào, tình cảm trào dâng, hoàn toàn khác trước.
Nước trong nghiên đã hòa tan mực đen nhánh, nhưng Thượng Quan Linh vẫn kiên nhẫn mài tiếp. Cô nhìn A Kiều đang nghiêng nghiêng khuôn mặt, bạo gan hỏi, “Nương nương yêu bệ hạ lắm sao?”
Nàng nghe vậy thì nhìn sững vào Thượng Quan Linh. Nét mặt thiếu nữ này có vẻ tò mò hiếu kỳ rất tự nhiên, thuần phác mà trầm tĩnh.
“Tại sao lại hỏi như vậy chứ?” Ánh nến chập chờn lay động theo làn gió thu thổi vào qua cửa sổ, câu hỏi của nàng cũng nhẹ như ánh nến.
“Bởi vì”, Thượng Quan Linh mím môi, cười vẻ ngượng ngùng, “Vẻ mặt nương nương rất dịu dàng.”
Yêu ư? Nàng mím môi cười, trầm ngầm một lát rồi nắn nót viết thư, bỏ vào phong bao, dán lại rồi dặn, “Sáng sớm mai giao cho người nội thị đưa thư.”
Ngoài song cửa, đêm thu vẫn chưa tàn.
/99
|