Nước trên mái ngói men theo rãnh chảy thành dòng, nhỏ giọt tí tách.
Đường phố được cơn mưa rửa sạch như lau như ly, mày cửa hiệu lúc trước đóng cửa giờ lần lượt mở cửa bán hàng trở lại, người đi đường cũng đông dần lên.
Khương Trầm Ngư cụp ô, đi vào khu chợ.
Khu chợ nằm ở góc Đông Bắc Lô Loan này là khu buôn bán nổi tiếng, thương nhân đến từ bốn nước đã biến nơi này trở nên phồn hoa náo nhiệt, ngoài phố Hoa Tân thuộc về Hách Dịch nàng đi qua lúc nãy, còn có ba con phố song song chạy theo hướng Nam Bắc, mà trong đó con phố nằm ngoài cùng về hướng Đông chính là phố Vân Tường.
So với Hoa Tân có đủ loại hàng hóa, sầm uất nhộn nhịp, phố Vân Tường lại nổi danh nhờ sự phong nhã, đắt đỏ, hàng hóa bán ra đa phần là đồ cổ thư pháp, châu báu dược phẩm…
Vì thế, cho dù trong bốn phố, nó vắng vẻ nhất, nhưng trên đường toàn là hương xa bảo mã, các khách nhân đều ăn mặc sang trọng.
“Đến hiệu Sái gia trên phố Vân Tường, mua ba cân Mê Điệt hương”. Đây là lời phụ thân dặn nàng trong lá thư mật.
Cũng có nghĩa là hiệu Sái gia tọa lạc trên con phố này là một quân cờ ngầm mà Khương Trọng cài vào Trình quốc. Khương Trầm Ngư nhìn khu phố trước mặt, không kìm được khâm phục sự suy tính sâu xa, chu toàn trong thuật gián điệp của phụ thân. Ai cũng biết, nơi ẩn náu tốt nhất chính là phố chợ, nơi nhiều người qua lại cũng là nơi tin tức nhanh nhạy nhất, vì thế, khi thiết lập điểm tập hợp tin tình báo, người ta thường đặt địa điểm ở chợ. Nhưng, người ta lại quên mất một điều rất quan trọng – tin tức dân gian là tin tức thiếu chuẩn xác nhất.
Đúng như cái gọi là những lời đồn đại, tam sao thất bản, một sự việc truyền qua miệng nhiều người, ắt sẽ bị thêm mắm dặm muối, thậm chí hoàn toàn ngược lại với ý nghĩa ban đầu, cho nên, tin tức có được từ trà quán tửu lâu quá ư hỗn độn, cũng quá chậm trễ. Nhưng hiệu Sái gia thì khác, giá cả hàng hóa ở đây đắt đỏ, chuyên phục vụ các nhà hào phú, hàng hóa bán ra lại là phấn son hương liệu, trang sức châu ngọc mà nữ quyền quý tộc không thể thiếu được. Quần thể thích buôn chuyện thị phi của người khác, có quan hệ mật thiết với đương sự nhưng lại đứng ngơài sự việc này là nguồn tin đáng tin cậy, an toàn nhất trong việc thu thập tin tức của cửa hiệu. Mà điều quan trọng nhất là nơi đây mới là nơi nàng – một sứ thần đến từ Bích quốc đến cũng không khiến ai nghi ngờ.
Khương Trầm Ngư cất bước đi về phía hiệu Sái gia cách đó hơn mười trượng.
Cửa hiệu mở rộng, bên chiếc quầy cao hơn nửa người, một người có vẻ là chưởng quầy đang nói chuyện cùng một bà lão.
Trong tay bà lão còn bế một đứa bé, đứa bé khóc oa oa, bà lão vội vàng vừa đung đưa vừa dỗ cháu. Trước một giá hàng trong góc, hai người bán hàng đang chào mời một quý phu nhân xem đồ trang sức, quý phu nhân đó lấy từng chiếc vòng trong hộp ra, đeo lên cổ tay, rồi lại lắc đầu, bỏ xuống, lại đeo chiếc khác lên.
Khương Trầm Ngư càng lúc càng lại gần, có thể nhìn rõ hoa văn trên những chiếc vòng kia, còn chục bước nữa, chín bước, tám bước…
Quý phu nhân cầm một chiếc vòng Bạch Ngọc Thanh Điền lên, từ từ đeo vào tay, chất ngọc trong suốt khiến cổ tay nàng ta trông càng thêm thon thả mềm mại.
Còn cách bảy bước, sáu bước, năm bước…
Bà lão vừa dỗ đứa trẻ, vừa quay đầu sang nói với chưởng quầy: “Không hiểu vì sao hai ngày nay cháu tôi cứ quấy khóc suốt”.
Chưởng quầy an ủi: “Trẻ con ấy mà, khóc một tí mới tốt”.
Còn cách bốn bước.
Người bán hàng nói: “Phu nhân, mua chiếc vòng này nhé, chiếc này rẻ…”.
Còn cách ba bước.
Cửa hiệu đã gần trong gang tấc, Khương Trầm Ngư đột nhiên xoay người, bước vào cửa hiệu bên cạnh.
Lập tức có người bán hàng chạy tới chào hỏi: “Cô nương muốn mua đàn ạ? Mời qua bên này…”.
Bên cạnh cửa hiệu Sái gia là một hiệu bán đàn.
Khương Trầm Ngư đến trước một cây Lôi Ngã cầm, trầm ngâm không nói.
Người bán hàng liến thoắng: “Cô nương… đúng là có con mắt tinh tường, chiếc đàn này là bảo bối trấn điếm(1) của tiệm chúng tôi, do đại sư chế tác đàn Lôi Văn làm ra lúc sinh thời, cô nương xem thân đàn được làm bằng loại gỗ hông thượng hạng nhất…”.
Những lời của hắn cứ lao xao bên tai biến thành phông nền, mà phía trên phông nền ấy thứ nổi bật nhất lại là – Không ổn hiệu Sái gia có gì đó không ổn!
Là bà, lại không biết cháu mình bị rớt một chiếc giày;
Là một quý phu nhân, lại có một đôi tay có vết chai;
Là một người bán hàng, lại hoàn toàn không có kỹ năng chào mời…
Tất cả, tất cả đều không ổn.
Những chi tiết không hợp logic này ngầm cho thấy một điềm báo nào đó, vì thế, trong giây phút cuối cùng, nàng đã quay đầu, bước vào một cửa hiệu khác.
“Không phải tự khen chứ âm sắc của cây đàn này dù không phải là tuyệt thế vô song, cũng có thể xếp hàng thứ hai…”. Gã bán hàng của hiệu đàn vẫn đang thao thao bất tuyệt.
Khương Trầm Ngư đột ngột quay đầu nói: “Ta muốn thử đàn”.
Gã bán hàng sững người rồi vội vàng nói: “Được được, không vấn đề gì, cô nương, mời ngồi bên này”.
Khương Trầm Ngư ngồi xuống trước một chiếc bàn bằng ngọc, từ góc nhìn của nàng, vừa hay có thể quan sát tình hình phía bên kia đường: Bên ngoài mấy cửa hiệu bán chữ, tranh, có mấy người bán kẹo rong; cách vài bước, còn có hai tên ăn mày đang lười biếng tựa tường sưởi nắng.
Nàng càng lúc càng khẳng định suy đoán của mình.
Khách nhân trên con phố này ai lại đi mua loại kẹo rẻ tiền đó? Sao lại để cho ăn mày sưởi nắng ở đây? Hơn nữa, vừa tạnh mưa xong, đường vẫn còn ướt, ăn mày chỉ là những người nghèo túng, chứ không phải là đồ ngọc, sao hoàn toàn không bận tâm đến chuyện đường ướt mà thản nhiên ngồi đó?
Mọi điều trên chỉ dẫn đến một kết luận: Cửa hiệu Sái gia có chuyện rồi.
Vì thế, cứ điểm ban đầu nay đã trở thành cái bẫy. Vậy thì, người đối phương muốn bắt là một mình nàng hay là tất cả gian tế nước địch ẩn náu ở Trình quốc?
Cho dù là thế nào, vừa nãy chỉ cần nàng bước vào cửa thì chắc chắn sẽ bị tóm gọn. Còn như có bắt nhầm người hay không, phải trải qua dùng hình thẩm vấn mới có thể phán đoán được.
Nghĩ đến khả năng này, sống lưng nàng bất giác ớn lạnh.
Lúc này gã bán hàng lấy đàn ra, đặt lên bàn, ân cần nói: “Dây đàn đã được bôi dầu, cũng đã cân chỉnh, cô nương cứ an tâm thử đàn nhé”.
Khương Trầm Ngư(2)nghĩ một lát, giơ tay, tiếng nhạc đột ngột nổi lên, nàng đàn khúc “Hoạch lân” .
Lân hề lân hề, hợp nhân trọng nghĩa, xuất hiện đúng thời.
Bước đi đúng mực, xoay mình đúng mực, tiếng tựa nhạc khí.
Nó đi tới đâu phải chọn rõ ràng rồi mới đến, nhân đức là ở chỗ cỏ tươi chẳng xéo, côn trùng sống chẳng giẫm.
Ở chẳng cùng bầy, đi không cù bạn.
Chẳng lọt cạm bẫy, lưới thưa lồng lộng mà không vướng vào.
Lân hề một sừng năm móng, khi nó kêu lên, hội tụ càn khôn. Nay xuất hiện không đúng thời, ăn sắt sinh vàng, uổng thay cho sự phi thường của nó…
Tiếng đàn tao nhã uyển chuyển, giữa âm điệu du dương, trầm bổng đan xen, nỗi bi phẫn như sóng vỗ ào ào, nỗi thê lương tựa tiếng thở dài khe khẽ, nhịp nhịp thương tâm, tiếng tiếng khắc cốt, nhưng từ đầu đến cuối lại tràn đầy hàm ý từ bi.
Tương truyền vào thời Lỗ Ai công, có người bắt được một con kỳ lân, nhưng làm nó bị thương. Sau khi Khổng Tử nhìn thấy, cảm thấy đau lòng, không kìm được lệ ướt vạt áo.
Khúc nhạc này chia làm sáu đoạn, Khương Trầm Ngư chỉ đàn đoạn đầu tiên “Thương thời Lân hề”, nhưng cũng đủ khiến người trong hiệu chú ý, người đi đường dừng chân. Khi nàng dừng tay, một tràng vỗ tay từ hậu sảnh vang lên.
Nàng quay đầu 1ại, chỉ thấy rèm gấm tầng tầng, không thấy người sau rèm.
Tiếng vỗ tay ngừng, một tiểu đồng vén rèm đi ra, tuổi chừng mười ba, mười bốn, gương mặt tròn trĩnh, không cười mà như cười, nhìn giống như một con búp bê đất, cực kỳ dễ thương.
Chỉ thấy hắn bước nhanh đến trước bàn, dừng lại nói: “Công tử nhà ta nói cô nương chơi đàn rất hay, cái gì mà ‘vời vợi chừ, như Hoa Sơn’…”.
Sau rèm có người ho, còn có một giọng nói rít lên: “Thái Sơn! Là Thái Sơn ấy! Đồ đầu heo!”.
Tiểu đồng vội vàng sửa: “Đúng rồi, là ‘Vời vợi chừ như Thái Sơn’ cái gì ‘Mênh mông chừ như… như… như…”.
Giọng nói the thé đó lại kêu lên: “Giang Hà(3)!”.
“A đúng rồi, mênh mông chừ như Giang Hà, tóm lại là hay nhất trên trời dưới đất… Cho nên, để cảm tạ khúc nhạc này của cô nương, công tử nhà ta xin cô nương nhất định phải nhận cây đàn này!”.
Khương Trầm Ngư ngạc nhiên, đăm đăm nhìn tấm rèm buông rủ đó, hỏi: “Công tử nhà ngươi là ai?”.
“Cái này… cô nương cứ nhận là được, danh tính không cần bận tâm”. Tiểu đồng nói với gã bán hàng: “Bọc cây đàn này lại, rồi sai người mang đến nhà cô nương này”.
Khương Trầm Ngư vội vã đứng dậy nói: “Đợi đã, bèo nước gặp nhau, không dám nhận món quà quý giá như thế này”. Cây đàn này ít nhất cũng phải nghìn lượng bạc, không biết thân phận của người tặng đàn, sao nàng dám nhận bừa?
Nhưng tiểu đồng đó vẫn lắc đầu nói: “Cung tử nhà ta nói ngài tặng cô nương đàn chỉ là muốn cảm tạ khúc nhạc nàng vừa đàn ban nãy, hơn nữa, cũng chỉ người có cầm nghệ xuất chúng như cô nương mới xứng với cây đàn này”.
Khương Trầm Ngư vẫn định chối từ, sau rèm chợt có tiếng động, tiếng bước chân xa dần, dường như đối phương đã rời khỏi đó.
Tiểu đồng nhe răng cười, nói: “Công tử nhà ta đi rồi, ta cũng phải đi đây. Cô nương đừng từ chối nữa, tuy nói là cái gì nước gặp nhau, nhưng có duyên tất sẽ gặp lại. Cáo từ”. Nói đoạn quay người nhảy chân sáo chạy đi.
Khương Trầm Ngư nhìn thấy một cỗ xe ngựa có nóc xe màu xanh sậm nhanh chóng rẽ ngoặt ở góc phố rồi biến mất.
Gã bán hàng bên cạnh nói: “Vậy để tiểu nhân bọc đàn lại cho cô nương, không biết phủ đệ của cô nương ở đâu? Tiểu nhân sai người đem đàn tới”.
Khương Trầm Ngư hỏi: “Ngươi có biết người tặng đàn là ai không?”.
“Chỉ biết là một công tử nhà giàu, đến sớm hơn cô nương một chút, đang ngồi xem đàn trong hậu sảnh, không ngờ chẳng mua gì cho mình nhưng lại mua đàn tặng cho cô nương”. Gã bán hàng vừa nói vừa cười ám muội, “Nhưng, cầm nghệ của cô nương đúng là tuyệt thế vô song, vị công tử đó tặng đàn cảm tạ tri âm, cũng coi là một câu chuyện đẹp”.
Khương Trầm Ngư nhất thời im lặng. Nàng đàn khúc này vốn chỉ muốn thăm dò cửa hiệu sát vách có phản ứng thế nào, xem xem những quân cờ ngầm của phụ thân bị quét sạch một mẻ, hay là vẫn còn cá lọt lưới, có lẽ sau khi nghe tiếng đàn của nàng, họ sẽ đoán được nàng đã đến, sẽ nghĩ cách truyền tin.
Mà nay, chưa do thám được động tĩnh của láng giềng, ngược lại tự dưng lại nhận được cây đàn này, đúng là “cố ý trồng hoa hoa chẳng nở, vô tình cắm liễu liễu xanh um”.
Lại nhìn cửa hiệu Sái gia vẫn không có động tĩnh xem ra hôm nay sẽ chẳng thăm dò được gì, nàng cũng không thể ở đây quá lâu để tránh để lộ thân phận, nàng bèn cho gã bán hàng địa chỉ của dịch trạm, còn mình đi bộ về.
Không ngờ vừa về đến dịch trạm, đã nhìn thấy cỗ xe ngựa có mái xe màu xanh sẫm trước sân.
Nàng vội hỏi: “Đây là xe ngựa của ai?”.
Lý Khánh đáp: “A, cô nương ra ngoài hai ngày nên không biết, đây là xe ngựa của sứ thần Yên quốc”.
“Sứ thần Yên quốc đến rồi sao? Là ai vậy?”.
“Nói ra thật khó tin, Yên vương đích thân đến”.
Khương Trầm Ngư khựng lại, kinh ngạc hỏi: “Cái gì? Yên vương?”.
“Đúng thế, ai mà ngờ được chứ. Lần này, Trình vương quả là hãnh diện, Nghi vương và Yên vương đã đến cả…”. Lý Khánh than.
Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn cỗ xe ngựa nhìn có vẻ bình thường đó, trong lòng cảm thấy vừa căng thẳng vừa bất an. Trong các quân chủ của bốn nước hiện nay, Chiêu Doãn tươi trẻ nhất, thời gian lên ngôi cũng ngắn nhất, bên ngoài bình luận y, phần lớnà lông cánh chưa đủ, bị thần tử khống chế, năm nay y đột nhiên trừ sạch Tiết gia, đích thân nắm quyền, bình luận chuyển thành kiên nhẫn cố chấp, lòng dạ sâu xa; bình luận về Nghi vương là tốt nhất, phóng khoáng thân dân, hài hước phong nhã, đã chấp chính sáu năm, trong nước không có chuyện lớn phát sinh, cũng không có điều gì thất đức; Minh Cung tuổi tác cao nhất, khi còn tráng niên ít lời vô sỉ, lật lọng là chuyện cơm bữa, hơn nữa hiếu chiến ham công, bị các nước xung quanh coi thường, nhưng con dân Trình quốc lại có một sự sùng bái thâm căn cố đế, thậm chí có thể nói là mù quáng điên cuồng đối với lão, tóm lại, Minh Cung là một quốc quân tương đối phức tạp…
Thế nhưng nếu nói đến người thực sự có phong độ đế vương thì đó chính là Yên vương Chương Hoa.
Cả đời Chương Hoa có thể nói là xuôi chèo mát mái, do quốc mẫu chính thống sinh ra(4), vừa ra đời đã được thụ phong thái tử, bình an đến lúc mười bảy tuổi, lão Yên vương đột nhiên nhìn thấu hồng trần, xuất gia làm hòa thượng, vì thế thuận lợi truyền ngôi cho con trai duy nhất. Mà Yên vương lại có một vị hảo thừa tướng một lòng trung thành, phò tá y đến năm hai mươi tuổi, mọi việc thành thục, trong nước không ẩn họa ngầm, bên ngoài chẳng mối âu lo, lão thừa tướng mới từ quan cáo lão, vân du thiên hạ. Mà con người Chương Hoa cũng đúng như lời y tự thuật: “Duy có Hách Dịch rực rỡ sáng chói rạng rỡ như vũ trụ nhật nguyệt, mới có thể sánh với ta”.
Yên quốc được y thống trị, binh tức mã cường, nước giàu dân mạnh, sức mạnh tổng hợp có thể coi là đứng đầu bốn nước, y chấp chính sáu năm, cất nhắc người tài không thiên vị đảng phái, cho gánh vác nghiệp lớn, để họ dốc hết kỳ tài. Nghe theo lẽ phải, tế thế an dân, công ích hiển hách.
Nếu muốn nói y có uy vọng thế nào, có một việc có thể chứng minh.
Tội tử hình của Yên quốc phải qua ba lần tấu, thẩm, phê mới có thể thi hành.
Vào năm Hoa Trinh thứ tư, trong cả nước người bị khép vào tội chết tổng cộng có bốn mươi chín người. Vừa hay trùng dịp năm mới, Chương Hoa hạ lệnh cho bốn mươi chín người này về nhà đón Tết cùng gia đình, qua mùa thu năm sau trở về thụ hình, kết quả tất cả bốn mươi chín người đều trở về đúng ngày, không ai bỏ trốn.
Việc này truyền đến ba nước còn lại, ai cũng kinh ngạc.
Ebook: Mèo
Nguồn: Ebook Fun&Free
Sau Tết, Chiêu Doãn lập tức phái Tiết Thái đi sứ Yên quốc, cũng vì thế dệt nên giai thoại Chương Hoa tặng tuyệt thế mỹ ngọc “Băng Ly” cho Tiết Thái.
Còn nay, vị đế vương nổi danh này cũng đến Trình quốc? – Hơn nữa, vừa nãy còn tặng nàng một cây đàn.
Cho dù Khương Trầm Ngư có trầm ổn, trấn tĩnh thế nào đi nữa, trái tim vẫn không chịu nghe lời mà đập điên cuồng, khi cất tiếng, giọng nói gấp gáp hẳn lên: “Yên vương bây giờ ở đâu?”
“Yên vương cũng ở đây, nhưng vừa nãy trong cung có người mời ngài đi rồi”.
Lời vừa dứt, một người từ trong nhà chạy ra, bù lu bù loa kêu lên: “Làm cái gì thế, ta mới chợp mắt một lúc, tất cả đều bỏ ta mà đi hết cả? Ta…”. Đang gào dở chừng, ngẩng đầu thấy Khương Trầm Ngư, kinh ngạc lắp bắp: “A, cô nương… đánh đàn”.
Người này không phải ai khác mà chính là tiểu đồng vừa tặng đàn cho nàng. Khương Trầm Ngư cũng sững sờ nhìn hắn, cảm thấy miệng hắn mấp máy, dường như lại nói gì đó, nhưng âm thanh bỗng trở nên mơ hồ, người hắn cũng từ một mà hóa thành mấy người, trời đất bắt đầu quay cuồng, tầm nhìn tối sầm lại. Nàng chỉ kịp nói một tiếng “ta” liền ngất lịm đi.
Trời đất tối đen.
Cơ thể giống như đang bị thiêu đốt trên ngọn lửa cháy rừng rực, xương cốt và tứ chi đều đau nhức khôn tả, rõ ràng trước mắt tối sầm, nhưng có thể loáng thoáng nghe thấy những giọng nói đứt quãng: “Ôi con gái thứ ba của hữu tướng Khương Trọng, phúc thừa Hoa tộc, lễ vượt nữ sư… vậy nên mệnh cho ngươi làm Thục phi, chọn ngày tiến cung…”.
“Khi còn nhỏ Trầm Ngư rất sợ đau… bây giờ, xin công tử hãy xỏ lỗ tai cho ta, coi như là quà mừng Trầm Ngư xin công tử…”.
“Trẫm muốn nàng, cùng Phan Phương, Giang Vãn Y đi Trình quốc…”.
“Đừng cho rằng làm nũng là ta có thể tha thứ cho muội…”.
“Ngu thị, hãy liên thủ với ta”. “Trẫm là đế vương…”.
Rất nhiều giọng nói đan xen với nhau, hỗn loạn, lặp lại không ngừng, giống như một sợi dây thừng quấn lấy nàng, sau đó từ từ thít chặt, rất đau, đau đến mức nàng không nói được, thậm chí không thở được.
“Tiểu thư của Khương gia?”. Một giọng nói mềm mại như nước, nhẹ nhàng như gió đã vang lên như thế.
“Sắc trời không còn sớm, Anh đưa tiểu thư về phủ”.
“Tiểu thư hẹn Anh đến đây, ắt là có chuyện, đã có chuyện, là ai hẹn có can hệ gì sao?”.
“Là Anh hành sự đường đột, vội vã truyền tin, hy vọng không quấy rầy chính sự của tiểu thư”.
“Tiểu thư…”. “Tiểu thư…”. “Tiểu thư…”.
Đừng, đừng, nàng không muốn nghe tiếp, đừng gọi nữa… “Ngu thị…”.
“Tiểu Ngu…”.
Hai giọng nói khác xen vào, Khương Trầm Ngư điên cuồng giãy giụa, bỗng nàng run lẩy bầy, mở choàng mắt. Thoạt đầu trước mắt vẫn tối đen, sau dần dần sáng tỏ, đập vào mắt nàng là một gương mặt mi thanh mục tú mang thần sắc thương xót âu lo quen thuộc mà ấm áp. Thế nên, một tiếng gọi tự nhiên bật ra: “Sư huynh…”.
Giang Vãn Y mỉm cười với nàng, giọng nói ấm áp như ánh mặt trời: “A Ngu, muội tỉnh rồi?”.
“Sư huynh, muội làm sao vậy?”.
“Muội bị bệnh. Nhưng đừng sợ, sẽ mau khỏi thôi”. Gương mặt hắn rất dịu dàng, nụ cười vô cùng điềm tĩnh, tựa như chỉ cần có hắn ở đây, nàng không cần sợ hãi bất cứ nỗi đau nào.
Khương Trầm Ngư có được lời đảm bảo, liền nhắm mắt thiếp đi, và lần này, cơn ác mộng đã biến mất.
Khi nàng tỉnh lại lần nữa, ánh nắng ngập tràn, Giang Vãn Y đã không còn ở bên giường, chỉ có Hoài Cẩn mừng rỡ đặt chiếc hộp trong tay xuống, chạy qua hỏi: “Tiểu thư, tiểu thư tỉnh rồi? Tiểu thư thấy đỡ hơn chưa?”.
Khương Trầm Ngư ôm chăn, từ từ ngồi dậy, “Đầu ta vẫn còn đau lắm”.
“Tiểu thư mới hạ sốt, đầu vẫn còn hơi nặng, hầu gia đã kê đơn thuốc, bây giờ đang sắc, một lát nữa là xong”. Hoài Cẩn lấy gối kê sau lưng nàng.
“Sư huynh đâu?”.
“Tiểu thư bệnh liền ba ngày, mấy ngày nay hầu gia đều túc trực chăm sóc tiểu thư, không được nghỉ ngơi tử tế, vừa nãy trong cung có người đến gọi ngài đi rồi”.
Khương Trầm Ngư áy náy, mình quả nhiên gây phiền phức rồi. Rõ ràng biết trách nhiệm mỗi người phải gánh vác đều không nhẹ nhàng, đặc biệt là Giang Vãn Y, là đại phu nên bận rộn, vất vả nhất, vậy mà nàng lại ngã bệnh đúng lúc này, gây thêm rắc rối cho hắn. Lúc đó nhảy xuống hồ chỉ vì cao hứng nhất thời, bây giờ hại mình không nói, còn liên lụy đến người khác.
Hoài Cẩn thấy nàng không vui, cũng tự đoán được vài phần, vội chuyển chủ đề khác: “Nhưng tiểu thư thật là có thể diện, nghe nói tiểu thư bệnh, số lễ vật này giống như thóc đổ vào kho, không ngừng cuồn cuộn đổ tới!”.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, quả nhiên ở góc tường, trên bàn ghế bên ngoài chất đầy hộp quà.
Hoài Cẩn cười nói: “Trong đó dĩ nhiên lễ vật của Nghi vương bệ hạ là nhiều nhất, hầu gia nói chỉ riêng sơ lễ vật Nghi vương tặng đã đủ mở một hiệu thuốc nhỏ rồi. Ba vị hoàng tử của Trình quốc cũng tặng toàn đồ bổ trân quý. Nhưng, kỳ lạ nhất là Yên vương cũng tặng lễ vật, nhưng lễ vật của ngài không giống người khác, tiểu thư xem xem?”. Nói đoạn lấy ra một chiếc hộp nhỏ, mở ra cho nàng xem.
Trong chiếc hộp nhỏ có mấy tờ giấy. Khương Trầm Ngư cầm lên xem, hóa ra là một khúc phổ, trang đầu tiên viết ba chữ “Phổ Am Chú”, phía dưới còn viết một hàng chữ nhỏ: ‘Thuốc chữa được bệnh, nhạc chữa được tâm. Trong ngoài thấu triệt, tịnh không tì viết”.
Nét chữ nguệch ngà nguệch ngoạc, tựa như người mới học viết, hơn nữa vết mực còn ướt, xem ra mới viết chưa lâu, chữ Tâm hơi nhòe, chữ “Vết” cũng viết nhầm thành chữ “Viết”.
Khương Trầm Ngư bất giác nhoẻn cười: “Là tiểu đồng của Yên vương đưa tới đúng không?”.
“Chính là cái người nói chuyện với tiểu thư lúc tiểu thư ngất xỉu hắn tên là Như Ý. Bên cạnh Yên vương có hai tiểu công công, một là hắn, ngoài ra còn một người tên là Cát Tường”.
Không cần nói, chữ trên khúc phổ này chắc chắn là do tên Như Ý học hành bát nháo đó viết. Vị Yên vương này thật thú vị tặng đàn tặng khúc đều không tự mình lộ diện, chỉ sai một tên hề đứng ra làm mất thể hiện, thật không biết là cố ý hay là quá dung túng.
Cười xong, Khương Trầm Ngư lại nhìn những chiếc hộp chất đầy căn phòng, hỏi: “Ngoài ra còn có ai tặng lễ vật nữa?”.
“Thượng vàng hạ cám đều có cả, quan viên của Trình quốc, sứ thần cùng đến với chúng ta…”.
“Em có mở ra xem từng món quà không?”.
Hoài Cẩn lấy ra một cuốn số nhỏ, trình lên trước mặt nàng: “Em đã ghi danh sách lễ vật và tên người tặng ở hết trong này”.
Khương Trầm Ngư không kìm được gật đầu hài lòng, ban đầu chọn mang theo Hoài Cẩn mà không phải Ác Du cũng chính vì Hoài Cẩn làm việc chu đáo cẩn thận, rất nhiều việc không cần nàng dặn dò, đều tự giác làm tốt. Nàng cầm lấy cuốn sổ, chậm rãi giở ra xem, ánh mắt lướt qua từng hàng tên tuổi, trong lòng trầm ngâm.
Nghi vương tặng quà, nàng không bất ngờ, Di Phi tặng quà nàng cũng không bất ngờ, nhưng Hàm Kỳ tặng quà thì có hơi khiên cưỡng, nàng chẳng qua cũng chỉ là một sứ giả của Bích quốc, cho dù có chút địa vị, nhưng cũng không quan trọng đến mức khiến tất cả mọi người đều lũ lượt tặng lễ vật.
Tại sao Hàm Kỳ lại tặng thuốc cho nàng? Là để cảm tạ nàng hôm ở bến cảng đã đi theo hắn mà không theo Di Phi? Nàng nghĩ không ra.
Còn như Lân Tố thì lại càng khiên cưỡng, nàng và Hàm Kỳ còn có chút giao tiết, nhưng nàng chẳng hề có quan hệ gì với vị đại hoàng tử này, tại sao y cũng tặng lễ vật cho nàng?
Ngoài ra còn có một số quan viên của Trình quốc, họ thấy các vị điện hạ bệ hạ đều tặng, cho nên cũng bắt chước? Hay là còn có nguyên nhân nào khác?
KhươngTrầm Ngư vừa nghĩ vừa xem, ánh mắt bỗng dừng lại ở một cái tên.
Nàng trầm ngâm giây lát, quay đầu hỏi: “Sư huynh có nói bệnh của ta bao giờ khỏi không?”.
“À, hầu gia chỉ nói để tiểu thư tĩnh dưỡng cẩn thận, không nói gì khác. Tiểu thư có chỗ nào khó chịu sao?”.
“Ừm”. Trầm Ngư gật đầu.
Hoài Cẩn ngẩn người: “Hả?”. Nhưng rõ ràng trong khí sắc tiểu thư đã tốt hơn rất nhiều mà…
“Bệnh của ta không phải dăm bữa nửa tháng là khỏi được, nếu lại có lễ vật gửi tới thì cứ nhận hết”. Khương Trầm Ngư đọc cuốn sổ, thuận miệng hỏi: “Công chúa Trình quốc cũng tặng quà à…”.
Hoài Cẩn che miệng cười, “Tiểu thư, tiểu thư không biết à?”.
“Biết cái gì?”.
Lễ vật của Di Thù công chúa do công chúa đích thân đem đến đó. Không chỉ như thế, công chúa hiện đang ở đây, bây giờ đang nói chuyện với Phan tướng quân trong hậu hoa viên”.
Bờ mi của Khương Trầm Ngư run run, nàng không hề ngạc nhiên vì Di Thù động lòng sau khi nghe câu chuyện của Phan Phương, chỉ có điều, nàng không ngờ vị công chúa này lại đến nhanh như thế, thẳng thắn như thế.
Mà trong hậu hoa viên cách đó tầng tầng tường viện, Di Thù đang trò chuyện với Phan Phương dưới tán cây ngọc lan.
“Nghe nói ta rất giống vong thê của tướng quân?”. Sự thực chứng minh, Di Thù còn thẳng thắn hơn Khương Trầm Ngư nghĩ, khi nàng ta hỏi câu này, trên gương mặt không hề có vẻ gì là thẹn thùng, hoa ngọc lan bừng nở sau lưng nàng ta, càng tôn lên vẻ đẹp diễm lệ say đắm lòng người.
Phan Phương chăm chú nhìn Di Thù, ánh mắt hơi tối.
Di Thù cười tươi như một đóa hoa: “Cho nên, trong bữa tiệc đêm đó, tướng quân mới rơi lệ trước mặt mọi người?”.
Phan Phương lại nhìn nàng ta chằm chằm hồi lâu mới chậm rãi mở miệng, nói: “Phụ thân của A Tần và phụ thân ta là chiến hữu, nàng mồ côi mẹ từ nhỏ, phụ thân cũng không quá nghiêm khắc, khi còn nhỏ nàng rất nghịch ngợm, trèo cây nghịch nước, chơi đùa đánh nhau, không khác nam nhi là bao”.
Di Thù ngưng cười, nghiêm túc lắng nghe.
“Vì thế, làn da của nàng rám nắng, phía sau tai trái còn có một vết sẹo nhỏ do bị đá cứa, chỗ đó cũng không mọc được tóc”.
Di Thù vô thức đưa tay sờ phía sau tai trái.
“Phía dưới mắt trái của nàng có một nốt ruồi nhỏ. Hơi nhỏ thường bị chúng ta chê cười, nói là nốt ruồi lệ, nhưng trong ấn tượng của ta, nàng chưa bao giờ khóc. Cho dù khi Tần bá phụ chết nơi sa trường, cho dù năm ta mười ba tuổi đi tòng quân buộc phải rời xa nàng, cho dù người chồng trước của nàng bị bệnh qua đời, nàng cũng chưa từng nhỏ một giọt lệ nào”.
Di Thù lộ vẻ áy náy, dường như cũng ý thức được rằng, so bì với một người đã chết, đặc biệt là so bì với người đã chết mà đối phương yêu sâu sắc, thì thật là không phải, liền lập tức ngại ngùng nói: “Xin lỗi, là Thù thất lễ.”
Phan Phương vẫn không tỏ cảm xúc, chỉ có vẻ thâm trầm, một vẻ thâm trầm mà ai cũng không hiểu rõ được, lời nói cũng vẫn rất ôn hòa, “Ta kể với công chúa những điều này, không phải là muốn chứng minh hai người khác nhau thế nào”.
Di Thù thoáng ngạc nhiên ngẩng đầu.
Phan Phương nhìn nàng ta, nói tiếp: “Sự thực thì giây phút nhìn thấy công chúa, ta rất vui”.
“Vui?”
“Đúng thế”, Phan Phương thu lại ánh nhìn, quay sang cây ngọc lan bên cạnh, sự thâm trầm không cảm xúc dần dần nhạt đi biến thành một nụ cười như gió thoảng, “Bởi vì, tuy A Tần đã mất, nhưng thế gian này còn có một số thứ, một số thứ vô cùng tươi đẹp khiến ta nhớ đến nàng, khi nhìn những thứ đó nàng dường như vẫn còn trên nhân thế, chưa hề đi xa, cũng chưa hề bị lãng quên, cho nên ta rất vui. Cho nên cảm ơn nàng, công chúa”.
Biểu tình của Di Thù lại thay đổi, cuối cùng, nàng quay đầu cao giọng nói: “Người đâu, đem thương của ta qua đây”.
Lập tức có thị vệ bưng một cây trường thương rất đẹp, toàn thân trắng toát, duy chỉ có đầu thương gắn một túm ngù đỏ đỏ chói mắt đỏ rực rỡ, thân thương cao bằng hai người, mà Di Thù một tay nắm lấy, nhẹ nhàng vung lên múa một cách đẹp mắt, toàn bộ động tác như nước chảy mây trôi, dứt khoát mạnh mẽ.
Khương Trầm Ngư được Hoài Cẩn dìu đến hậu hoa viên, đã nhìn thấy cảnh tượng như thế này: Chỉ nghe Di Thù nói: “Nước ta xưa nay sùng võ, từ lâu đã nghe nói tướng quân võ nghệ siêu quần, giỏi dùng trường thương, mười sáu tuổi đánh bại đại tướng quân Nghi quốc Nhan Hoài, mười chín tuổi thụ phong Khinh xa tướng quân, mà nay lại vừa đánh bại Đệ nhất danh tướng tứ quốc Tiết Hoài. Cho nên, Thù bất tài, muốn lĩnh giáo vài chiêu với tướng quân”.
Phan Phương như định từ chối, Di Thù lại tiếp: “Tướng quân cũng là kẻ học võ, nên lấy võ đạo kính ta, không cần nói những lời như thân thể ngàn vàng, không dám mạo phạm”.
Phan Phương lại im lặng.
Khương Trầm Ngư đứng một bên, khép chặt áo khoác, trong lòng không rõ là vui hay buồn. Di Thù khiêu chiến Phan Phương, thắng nàng ta, Trình quốc mất thể diện, thua nàng ta, e là công chúa tâm cao khí ngạo y cũng không coi Phan Phương ra gì, nhưng để không thắng cũng không thua, thực sự rất khó. Đương nhiên Phan Phương võ nghệ cao thâm, nhưng nghe nói Di Thù cũng không yếu đuối, cho dù là Hàm Kỳ cũng chưa chắc là đối thủ của muội muội. Trận đấu này… không biết là họa hay là phúc đây…
Đúng lúc này, một giọng nói đột ngột vang lên: “Ta cá công chúa thắng!”.
Khương Trầm Ngư quay đầu nhìn, thấy hai thiếu niên từ xa bước tới, tướng mạo giống hệt nhau, một người mặc áo lam, một người mặc áo đỏ, trong đó một người là Như Ý, vậy người kia chính là Cát Tường.
Hai thiếu niên nhìn thấy nàng, áo lam cười ngọt như mật: “Ngu cô nương bệnh đã đỡ chưa? Có thể ra ngoài rồi à? Hôm đó cô nương tự nhiên ngất xỉu, hại ta sợ gần chết”.
Khương Trầm Ngư nhún mình bái tạ: “Thiếp thân thất lễ, khiến công công kinh sợ. Đúng rồi, đa tạ khúc phổ của Yên vương bệ hạ, bao giờ khỏe hơn, ta sẽ đích thân tới tạ ơn”.
Như Ý áo lam vội vàng xua tay: “Không cần đâu, công tử nói tặng cô nương đàn và bản nhạc đều chỉ là tặng những thứ đó cho chủ nhân thích hợp nhất của chúng mà thôi. Nếu như thực sự phải cảm tạ, thì hãy cảm tạ ông trời đã sinh ra cô nương như chung… cái gì mà tú ấy”.
Cát Tường áo đỏ lộ vẻ xấu hổ, gắt lên: “Chung linh dục tú(5) đồ ngốc! Không biết thì đừng nói, đừng có dùng thành ngữ bốn chữ, ngươi không biết thế nào là giấu dốt à?”.
“Ngươi quản ta? Ta cứ thích nói thành ngữ đấy! Đến thánh thượng còn không quản ta…”.
“Đó là do ngài tuyệt vọng với ngươi rồi, có biết không?”.
Hai người cãi qua cãi lại, khiến Phan Phương và Di Thù đứng một bên cũng thấy bối rối, vốn là một cảnh tượng kích động khiến người ta căng thẳng nghiêm trang, lại bị quấy đảo không còn chút không khí căng thẳng nào nữa.
Di Thù đành ho một tiếng, lại nâng trường thương lên nói: “Mong tướng quân thành toàn”.
Phan Phương im lặng một hồi rồi mới đáp: “Đao kiếm không có mắt, công chúa cẩn thận. Có chỗ nào đắc tội, mong được lượng thứ”.
Di Thù cả mừng, biết y nhận lời, vội vàng sai tùy tùng mang thương đến cho y. Hai thương đối đầu, sát khí bao trùm, đến Cát Tường, Như Ý cũng ngừng đấu khẩu, cùng quay đầu lại.
Như Ý bước lên, khẽ giật giật tay áo Khương Trầm Ngư nói: “Ngu cô nương chúng ta tránh ra phía sau một chút đi, cẩn thận kẻo bị thương”.
Khương Trầm Ngư không ngờ hắn lại quan tâm nàng như thế, trong lòng ấm áp, vội vàng lùi về phía sau, những thị vệ khác cũng lần lượt lùi, chừa khoảng trống đủ cho hai người tỉ thí.
Di Thù nói “Đắc tội rồi”, ngù đỏ như rắn nhảy lên đâm thẳng vào tim Phan Phương.
Khương Trầm Ngư không hiểu võ công, vì thế chỉ cảm thấy trước mặt một màn hỗn loạn, thân thương trắng toát, tua ngù màu đỏ cùng với y phục Di Thù mặc kết thành ba dải màu, tầng tầng vây quanh Phan Phương, dần dần nuốt trọn.
Bên cạnh, Như Ý nghênh ngang bình luận: “Ở, thương pháp của công chúa Trình quốc quả nhiên xuất sắc, chiêu Linh Xà Xuất Động này rõ ràng là Trình vương đích thân truyền thụ, điêu luyện nhuần nhuyễn… A, thương này hiểm quá! Tuy nói thương pháp của Trình quốc nổi tiếng là nhanh, đánh vào chỗ không phòng bị, mấu chốt là giành được tiên cơ, nhưng hai quân giao tranh, thời cơ là then chốt nhất, chỉ tấn công nhanh thế này, ngược lại thành lỗ mãng… Nhìn kìa, tránh được rồi? Ầy so với tốc độ của công chúa, Phan tướng quân thật là chậm, có điều lúc này lấy tĩnh chế động đúng là kế hay…”.
Khương Trầm Ngư ngạc nhiên hỏi: “Tiểu công công biết võ?”.
Như Ý còn chưa kịp trả lời, Cát Tường đã cười phì, nói: “Hắn đích thực biết võ công, đáng tiếc là chỉ biết nhìn rồi bình luận, chứ để hắn đích thân lên đài, tuyệt đối không làm ăn được gì đâu”.
Như Ý mặt đỏ lựng, hừ một tiếng nói: “Thế thì đã làm sao? Ta thân thể cao quý, còn cần tự mình động thủ sao? Huống hồ, thực khách chỉ cần sành ăn là được rồi, đâu cần tự mình xuống bếp… A! Phan tướng quân nguy hiểm!”.
Khi hắn la lên nguy hiểm, trường thương Di Thù linh động đâm vào hai mắt Phan Phương bằng một tốc độ cực kỳ nhanh, mà Phan Phương đang ở giữa không trung, không thể tránh, cũng không thể trốn, nhìn thương sắp đâm vào mắt, nhưng đúng giây cuối lại chệch đi, chỉ nghe một tiếng động khẽ, đầu thương đâm vào cánh tay trái của y.
Đồng thời, y đáp xuống đất, lùi lại ba bước.
Khương Trầm Ngư trong lòng lo lắng – thua rồi!
Trên sân hai người bất động, ngoài sân im lặng như tờ.
Như Ý trợn mắt, lộ vẻ không hiểu được.
Còn Di Thù giữ nguyên động tác đâm, một lúc sau, cánh tay nhấc lên, thu hồi trường thương, nhưng thân thương và mũi thương gãy rời, đầu thương vẫn cắm trên tay Phan Phương.
Nàng ta nhìn cây thương gãy của mình, tựa như si ngốc, cuối cùng ngẩng đầu nhìn Phan Phương, mãi không nói gì.
Phan Phương cười nhạt: “Ta thua rồi”.
Vẻ mặt Di Thù lại biến đổi, có vẻ vô cùng cổ quái, sau chót cúi đầu, thong thả nói: “Đã nhường…”, ngừng lại một lát, nói thêm một câu: “Đa tạ”, lại ngừng lại như nghĩ ngợi gì đó, ngẩng đầu lên nói: “Vết thương của tướng quân…”.
Phan Phương không để tâm, đáp: “Vãn Y trở về sẽ tự biết xử lý”.
Di Thù gật đầu, vứt cây thương cho thị vệ bên cạnh: “Chúng ta đi”. Cứ như vậy đi không còn một ai.
Nàng ta vừa đi, Khương Trầm Ngư vội vàng chạy tới, hỏi: “Tướng quân, vết thương của ngài…”.
Phan Phương giữ tay nàng lại, im lặng lắc đầu, trong mắt lóe lên một tia dị sắc. Khương Trầm Ngư hiểu ý, dịu dàng nói: “Cho dù thế nào phải về phòng cầm máu đã”. Nàng lập tức sai người dìu y về phòng.
Về tới phòng, nàng cho người xung quanh lui ra hết, đích thân lấy hòm thuốc, đang nghĩ phải làm – thế nào nhổ đầu thương ra, chỉ thấy cơ bắp trên cánh tay Phan Phương đột ngột gồng lên, sau đó đầu thương tự nhiên trồi lên, rơi cạch trên mặt bàn.
Khương Trầm Ngư vội vã cầm máu băng bó cho y, hỏi: “Tướng quân cố ý thua công chúa?”.
Phan Phương lạnh nhạt “ừ” một tiếng.
“Tại sao?”.
Ánh mắt Phan Phương rơi trên mũi thương đó.
Khương Trầm Ngư cầm mũi thương lên quan sát kỹ lưỡng, Phan Phương giải thích: “Thuật luyện sắt của Trình quốc đứng đầu bốn nước, cây thương Di Thù sử dụng lại là tinh phẩm ngàn cây mới có một”.
Lúc trước đứng xa nhìn chỉ coi đó là một cây thương bình thường, mà nay cầm trong tay mới biết còn có huyền cơ. Đầu thương sắc nhọn đã đành, bên trong còn giấu bảy mũi móc câu, ngoài ra còn có rãnh trũng. Tinh xảo như thế nhưng đặt trong tay lại nhẹ bẫng, thật là khiến người ta thán phục.
Khương Trầm Ngư nói: “Cho nên tướng quân mới cố ý thua, chịu một thương của công chúa để giữ lại mũi thương này?”.
Phan Phương lắc đầu. Thấy nàng không hiểu, bèn giải thích: “Ta giữ lại mũi thương là cố ý, nhưng chịu một thương của công chúa là bất đắc dĩ”.
“Hả?”.
“Bởi vì, ta muốn cứu nàng ấy”.
“Cái gì? Sở dĩ Phan Phương thua là vì hắn muốn cứu Di Thù?”.
Cùng lúc đó, trong một căn phòng khác của dịch trạm, kết luận tương tự cũng được nói ra từ miệng một người khác.
Trong căn phòng bố trí đơn giản nhưng cực kỳ thoải mái, nam tử mặc áo tím mỉm cười: “Không sai, chính là để cứu người”.
Như Ý bĩu môi: “Sao có thể thế được? Khi đó rõ ràng thần nhìn thấy hắn không thể trốn được…”.
“Trước đó, có phải Di Thù đã dùng chiêu Phi Long Quy Hải, còn Phan Phương dùng thương chặn lại, mượn lực thuận thế bay lên?”.
Như Ý cả kinh: “Không phải thánh thượng không có mặt ở đó sao? Làm sao người biết được?”
Cát Tương được thể xen vào: “Phì, trên đời có chuyện gì mà thánh thượng không biết?”.
Người áo tím chỉ cười cười: “Phan Phương ở giữa không trung, không sức chống đỡ, toàn thân sơ hở, vốn là thời cơ tuyệt vời, nhưng phải biết rằng, không phải tất cả mọi người đều có thể dễ dàng lách khỏi ngọn thương của Di Thù, đặc biệt là chiêu Phi Long Quy Hải tinh diệu như thế, chiêu đó muốn thi triển, hẳn phải dùng ít nhất tám thành công lực, hơn nữa đã đâm là phải trúng, nếu không nội lực sẽ phản lại làm bản thân bị thương. Di Thù dùng chiêu này, vốn tưởng đã giành chắc phần thắng, không ngờ Phan Phương lại dễ dàng hóa giải. Nàng ta thấy Phan Phương bay lên, không nỡ bỏ qua thời cơ tốt, vì thế gấp rút tấn công, không màng đến nội lực phản lại, thương đi nửa chừng, nếu phía trước không có chỗ dụng lực sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Phan Phương vì không muốn nàng ta bị thương, bèn dùng cánh tay đỡ lấy một thương đây cũng là nguyên nhân vì sao mũi thương gãy rời”.
Như Ý vò đầu, nói: “Ra là thế sao…”.
Cát Tương cốc vào đầu hắn: “Cái gì là như thế sao? Lời thánh thượng nói, ngươi còn dám hoài nghi, đúng là ngày càng không biết phép tắc!”.
Người áo tím cười ha ha: “Ngươi theo ta gần hai năm rồi, học văn không thành, học võ cũng chỉ hời hợt, nên nghiêm túc xét lại bản thân”.
Như Ý cúi đầu, đáp: “Mới chưa đến hai năm đã mong nô tài tiến bộ vượt bậc, cũng quá nghiêm khắc, nô tài không phải là Tiết Thái của Bích quốc… Ai da!”. Nói đến đây, bị Cát Tương nhéo một cái đau điếng.
Nụ cười trên gương mặt người áo tím biến mất, dõi trông bầu trời bên ngoài cửa sổ, buồn bã nói: “Tiết Thái…”.
Nơi chân trời, ráng chiều như gấm, thế nhưng nó cách phàm trần tục thế quá xa, xa không thể với tới được.
Mà dưới ráng chiều xa thẳm ấy, Khương Trầm Ngư nói: “Trong lòng công chúa cũng rất rõ là tướng quân cứu nàng ta, cho nên vẻ mặt mới kỳ quái như vậy?”.
Phan Phương “ừm” một tiếng, “Có điều, ta còn có một chuyện không hiểu”. “Xin tướng quân cứ nói”.
Phan Phương chỉ mũi thương đó, nói; “Thương này chế tạo tinh xảo không cần nhắc đến, nhưng chất liệu của nó là loại sắt hiếm tám màu thượng đẳng, tuy nhẹ nhưng cực kỳ cứng. Nhưng theo ta biết trong khắp Trình quốc, không nơi nào có loại sắt này”.
“Ý của tướng quân là loại sắt này mua từ nước khác về?”.
Phan Phương gật đầu: “Trình quốc nước nhỏ đất cằn, khoáng sản không nhiều, nhưng họ lại có vũ khí mạnh nhất, hơn nữa số lượng dồi dào, chất lượng tuyệt đỉnh, vượt xa các nước khác. Thế là vì sao? Là ai bán sắt cho bọn họ?”.
Đáp án đầu tiên mà Khương Trầm Ngư nghĩ tới chính là: “Nghi vương?”.
Phan Phương lắc đầu: “Nghi quốc cũng không có loại sắt này”.
Khương Trầm Ngư nhíu mày.
Sắc mặt Phan Phương nghiêm nghị, nén thấp giọng nói: “Loại sắt này chỉ có Quyển Nhĩ sơn ở Hồng Diệp Hương trong Bích quốc mới có, vì số lượng cực kỳ ít nên vô cùng quý hiếm, chỉ dùng để tiến cống, cấm mua bán trong dân gian”.
Lòng Khương Trầm Ngư chùng xuống, cuối cùng ý thức được sự nghiêm trọng của sự việc – Sắt tiến cống của Bích quốc biến thành vũ khí của công chúa Trình quốc, là biếu tặng? Hay là mua bán? Là ai có quyền đem tặng và mua bán?
Chỉ một mũi thương nhỏ nhoi, đột nhiên trở nên nặng tựa ngàn cân. Trong vụ giao dịch này, thứ bán đi chỉ là sắt hay là… đất nước?
“Tiểu thư, tiểu thư bảo em lưu ý tên Mê Điệp đó, hôm nay hắn lại tặng thuốc nữa”. Trong phòng ngủ, Hoài Cẩn cầm một trang danh sách quà tặng mới đến bên Khương Trầm Ngư.
Khương Trầm Ngư cầm lấy tờ danh sách.
Hôm qua, khi nàng nhìn thấy một người tên “Mê Điệp” trong danh sách liền cảm thấy có gì đó bất thường, nên bảo Hoài Cẩn phàm có người nào đến tặng lễ thì cứ thu nhận, quả nhiên không ngoài dự đoán, hôm nay người đó lại tặng thuốc. Cứ như thế, đối phương liên tục tặng hai mươi chín loại thuốc trong vòng ba ngày.
Hai mươi chín… nghĩ đi nghĩ lại, thứ duy nhất có liên hệ đến con số này chỉ có ngày sinh của Trình vương – hai mươi chín tháng sáu.
Khương Trầm Ngư đặt mấy tờ danh sách cạnh nhau để đối chiếu hai mươi chín loại thuốc đó không phải là loại thuốc quý báu gì, phần lớn là thuốc thanh nhiệt tiêu viêm, bổ gân cốt, nhưng nếu như bỏ đuôi bỏ đầu một số trong đó, thì sẽ biến thành: Cúc (cứ) Oa, nhất điểm (điểm) hồng, trạch tả (tiết), lộc (lộ) giác sương, đâu linh (lân), tố (tố) hinh hoa, tỏa (sở) dương, ngũ vị (vi) tử, kim (cẩn) kiều mạch, phòng (phòng) phong, nhẫn đông (đông), hậu (hầu) bổ, thác bàn (phán) cân, ngư (ngư) tinh thảo, thục (tốc) địa, đương quy (quy) (6).
“Cứ điểm tiết lộ, Lân Tố sở vi. Cẩn phòng Đông hầu, phán Ngư tốc quy”.
(Cứ điểm bị bại lộ, là do Lân Tố làm. Cẩn thận đề phòng Đông Bích hầu, mong Trầm Ngư mau quay về.)
Tay Khương Trầm Ngư khẽ run rẩy, một tờ giấy trong số đó rơi khỏi tay, liệng vòng rớt xuống mặt đất. Ánh mắt nàng dừng lại trên trang giấy dưới chân, mãi không thốt nên lời.
Nếu như nói, việc bọn mai phục trong cửa hiệu Sái gia là thủ hạ của Lân Tố đã đủ khiến người ta kinh ngạc, vậy thì câu thứ hai càng khiến nàng lạnh buốt đến tận tâm can.
Phụ thân bảo nàng… đề phòng Giang Vãn Y.
Giang Vãn Y.
Chính là người mỉm cười nói với nàng đừng sợ hãi khi nàng chìm trong cơn ác mộng, chính người trên danh nghĩa là sư huynh của nàng, chính là người mà nàng hao phí tâm sức tìm cách cứu…
Tại sao lại là hắn?
Nàng nhặt tờ danh sách lên, đọc đi đọc lại mấy lần, những mong tìm ra ý tứ thứ hai để bác bỏ kết quả này, thế nhưng, bút tích trước mắt vô cùng rõ ràng mà tàn nhẫn nhắc nhở nàng, những việc đã phát sinh trong mấy ngày nay: Ngày mùng một tháng sáu, Tây cung, Giang Vãn Y bị phát hiện đêm khuya xuất hiện trong tẩm cung của La quý phi;
Ngày mùng hai tháng sáu, khi Di Phi thẩm tra Giang Vãn Y và La phi, Lân Tố bất ngờ xuất hiện;
Ngày mùng ba tháng sáu, Di Phi nói với nàng đêm đó Giang Vãn Y gặp một người khác ở Tây cung, mà cùng ngày, nàng phát hiện cứ điểm của phụ thân bị tiêu diệt.
Bây giờ, ngày mùng bảy tháng sáu, phụ thân sai người báo cho nàng, phải đề phòng Giang Vãn Y…
Tại sao? Tại sao?
Lẽ nào người Giang Vãn Y gặp đêm đó là Lân Tố? Hắn đã tiết lộ thân phận của nàng cho Lân Tố? Vì thế Lân Tố bắt đầu triệt để điều tra kinh đô, tróc nã những quân cờ ngầm của Khương gia, lại đặt cạm bẫy đợi nàng chui đầu vào rọ? Thế nhưng chẳng phải nàng và Giang Vãn Y chung thuyền sao? Bán đứng nàng có lợi gì cho Giang Vãn Y? Tại sao phụ thân không nói rõ một chút? Tại sao trước mắt trùng trùng mây mù, không những không rõ ràng, ngược lại càng lúc càng mơ hồ?
Khương Trầm Ngư bắt đầu hồi tưởng hết thảy sự việc liên quan đến vị sư huynh trên danh nghĩa này: Hắn là con trai độc nhất của Giang Hoài, ba năm trước vì tranh chấp với phụ thân, bỏ nhà ra đi, lưu lạc nhân gian, trong ba năm, cứu người vô số, được dân chúng phong làm thần y. Sau đó, hắn đột nhiên quay về, trở thành môn khách của công tử, việc đầu tiên sau khi về kinh thành là trị bệnh cho Hy Hòa phu nhân. Hắn có y thuật tinh thâm, chữa đâu khỏi đó, vì thế Hy Hòa phu nhân mau chóng lành bệnh, Chiêu Doãn vô cùng vui mừng, lại tra ra Giang gia và Diệp gia là thân thích, cho nên để Hy Hòa phu nhân và hắn nhận tổ quy tông, phong thưởng tước hầu, lại phái đi sứ Trình quốc, chữa bệnh cho Trình vương.
Không sai, đó chính là lai lịch của Giang Vãn Y.
Là sư muội đồng hành, có quan hệ mật thiết với hắn, nàng còn thấy được nhiều hơn: Hắn tính tình ôn hòa, cực kỳ quan tâm người dưới, không hề kiêu ngạo.
Hắn cẩn thận chu đáo, luôn toàn tâm toàn lực quên ăn quên ngủ chữa bệnh cho người khác.
Hắn còn có một trái tim vô cùng dịu dàng, vô cùng từ bi, ôm hoài bão tế thế cứu người, không phân sang hèn, coi mọi người bệnh như nhau…
Một người như thế, một người như thế… nếu tất cả đều là giả tạo…
Thật là đáng sợ.
Khương Trầm Ngư nắm chặt hai tay, muốn kiềm chế bản thân giữ bình tĩnh, nhưng ngón tay nàng run mãi run mãi, không sao dừng lại được.
Bình tĩnh, bình tĩnh, đừng hoảng loạn, từ từ nghĩ, chắc chắn, chắc chắn có thứ gì bị bỏ qua hoặc quên mất, bình tĩnh nào, nghĩ kỹ xem, có thể làm được, nhất định có thể…
Nàng nhắm mắt, hít thở thật sâu, hít vào thở ra mười lần mới mở mắt. Hoài Cẩn lo lắng nhìn nàng, “Tiểu thư, tiểu thư không sao chứ?”.
Ánh mắt Khương Trầm Ngư đậu trên tay Hoài Cẩn: “Trên cổ tay ngươi buộc cái gì đó?”.
Hoài Cẩn sững ra, giơ tay lên: “Tiểu thư nói sợi dây đỏ này à? Là năm ngoái em theo phu nhân đến Định Quốc tự lễ Phật xin được đấy”.
“Có thể tháo ra cho ta xem không?”.
Hoài Cẩn lập tức cởi sợi dây đỏ đó ra, Khương Trầm Ngư cầm lấy, tỉ mỉ xem xét, mấy sợi chỉ bện xoắn, xỏ qua ba hạt châu trắng một hạt châu đỏ, bện rất tinh xảo. Đôi mắt nàng từ đậm sang nhạt, lại từ nhạt sang đậm. Cứ thế sau một thời gian dài, nàng bỗng kêu lên thất thanh, trong mắt như có một ngọn lửa bùng lên, sáng rỡ lạ thường: “Hóa ra là thế!”.
“Tiểu thư! Cái gì là thế”.
Khương Trầm Ngư đứng dậy, vì kích động nên bước mấy bước về phía trước, lẩm bẩm: “Hóa ra là thế, thật sự là như thế sao?”.
“Tiểu thư?”.
Khương Trầm Ngư nắm chặt sợi dây đỏ, hôm nay là ngày mùng bảy tháng sáu, còn hai mươi hai ngày là đến sinh nhật Trình vương. Mệnh lệnh của Chiêu Doãn là đánh cắp bí mật và cưới được công chúa. Nhưng bây giờ xem ra tình huống rõ ràng trở nên phức tạp hơn rất nhiều.
Khương Trầm Ngư hạ rèm mi, còn hai mươi hai ngày… Ngoài cửa có người gõ cửa.
Hoài Cẩn mở cửa ra, thấy Lý Khánh khom mình bẩm: “Ngu cô nương, có thiếp mời gửi tới”.
Hoài Cẩn tò mò hỏi: “Ấy, trong cung lại thiết yến à?”.
Lý Khánh đáp: “Đúng là mời dự yến, nhưng không phải trong cung, mà là…”.
Lão còn chưa nói hết, Khương Trầm Ngư đã quay lại mỉm cười, tiếp lời với một vẻ điềm tĩnh như đã đoán trước được, nói: “Mà là Di Thù công chúa, đúng không?”.
Hoài Cẩn nhận thiếp mời, chỗ lạc khoản, trên trang giấy màu hồng đào quả nhiên viết hai chữ “Di Thù”.
Di Thù mời hai người là nàng và Phan Phương.
Vì được Trình vương bội phần sủng ái, cho nên vị công chúa này cũng có phủ đệ riêng như mấy vị ca ca, chỉ có điều, khi xe ngựa dừng lại ở cuối con ngõ nhỏ, phu xe nói trước mặt là phủ công chúa, Khương Trầm Ngư vẫn hơi ngạc nhiên một chút.
Một con ngõ rất bình thường, ngoài sạch sẽ và yên tĩnh hơn những con ngõ bình thường khác thì không có điểm nào đặc biệt cả.
Hai cánh cửa phủ sơn son, mép cửa còn bong sơn, vòng đồng sáng loáng.
Một lão già lưng gù dáng dấp như quản gia đang đứng trước bậc thềm khom lưng chờ đợi, thấy họ tới cũng không nhiều lời, hành lễ xong liền quay lưng lại dẫn đường.
Bước qua cánh cửa là một bức tường vẽ tranh màu, không phải là long phượng hoa cỏ thường thấy mà là hình Nữ Oa và Phục Hy đầu người thân rắn.
Qua thềm chắn gió, lọt vào tầm mắt là một khu vườn rộng rãi, sáng sủa, mấy gian nhà tre thấp thoáng giữa rừng sâu hồ biếc, hoa dại không biết tên nở đầy trước cửa, khiến người ta như lạc vào chốn nông gia, phong vị đồng quê dạt dào.
Tuy đều là những kiến trúc độc đáo, nhưng Di Thù và Di Phi không giống nhau, Di Phi ở một phủ đệ không làm người khác kinh ngạc không chịu thôi, còn Di Thù rõ ràng kín đáo, giản dị hơn nhiều.
Lão quản gia không dẫn họ vào trong nhà mà đi đến rừng trúc sau nhà, từ xa đã nghe thấy tiếng giao đấu và tiếng cổ cầm. Sau khi đi vòng qua căn nhà liền thấy trên khoảng đất trống ở hậu viện có bày mấy chiếc bàn ghế, một thiếu nữ ăn vận như tì nữ đang gảy đàn, cách đó vài trượng, hai người đang tỉ võ, một người dùng trường thương, một người dùng trường đao.
Không cần nói, người dùng thương chính là Di Thù, còn người dùng đao lại là Hàm Kỳ.
Hai người họ nếu nói là đang tỉ võ, chẳng thà nói là biểu diễn thì đúng hơn. Thương tới đao đi, mang theo tiết tấu tao nhã, hợp thành một thể với tiếng đàn, ánh trăng chiếu rọi lên hai người, trùm lên họ một màn ngân quang bàng bạc, phối hợp với binh khí vút lên xé gió, đánh rất đẹp mắt. Cho dù Khương Trầm Ngư không hiểu võ công, cũng cảm thấy cảnh tượng đẹp mắt, trong lòng khoan khoái. Nhất thời cao hứng, không kìm được bước đến vỗ vào vai người chơi đàn, ra dấu tay với nàng ta.
Thiếu nữ chơi đàn hiểu ý, im lặng đứng dậy nhường chỗ. Mà nàng ta vừa mới rời tay, Khương Trầm Ngư đã thay nàng ta đàn tiếp.
Dây rung, âm khởi, gió động.
Trong sân đao thương càng nhanh hơn, hồng bào áo đỏ tung bay phấp phới, phóng khoáng như nước chảy mây trôi.
Phan Phương im lặng chăm chú nhìn chiêu thức của hai người, bỗng mặt biến sắc, gần như trong cùng một giây, trường thương trong tay Di Thù bay khỏi tay, vạch một đường cong trong không trung rồi cắm phập xuống đất, thân thương không ngừng rung rung.
Khương Trầm Ngư vội dừng tay đứng dậy, nói gấp: “A Ngu nhất thời vui quá hóa vô lễ, đàn quả khích động, tội đáng muôn chết!”. Nói đoạn định quỳ xuống, nhưng bị Di Thù giơ tay ngăn lại.
Di Thù cười nói: “Là ta võ nghệ không bằng người, bị đánh rớt binh khí, may mà thương bay về phía bên kia, không làm các ngươi bị thương”.
Khương Trầm Ngư áy náy nhìn Hàm Kỳ, thấy hắn im lặng ngẩn nhìn trường đao trong tay, sau đó ngẩng đầu nhìn nàng.
Những tin đồn tai tiếng nhỏ nhen có thù tất báo liên quan đến người này bỗng dội lên trong đầu, sắc mặt Khương Trầm Ngư trở nên hơi nhợt nhạt, nhưng không ngờ Hàm Kỳ không hề giận dữ, chỉ lạnh nhạt nói: “Ngươi đàn khá lắm”.
Di Thù xùy một tiếng, nhếch môi hỏi: “Nhị hoàng huynh bắt đầu hiểu những chuyện phong hoa tuyết nguyệt này từ lúc nào vậy? Ngu cô nương đàn thế nào, huynh có nghe ra không?”.
Hàm Kỳ không thèm đếm xỉa đến lời châm chọc của nàng ta, dán mắt nhìn Trầm Ngư, hỏi: “Ngươi khỏi bệnh chưa?”.
Khương Trầm Ngư còn chưa kịp đáp lời, Di Thù lại cười ha ha: “Nhị hoàng huynh quan tâm người ta, luôn lo lắng cho bệnh của người ta”.
Khương Trầm Ngư nghe ra trong lời như có ẩn ý, có một cảm giác rất vi diệu, không kìm được khẽ chau mày. May mà Di Thù không lằng nhằng ở chủ đề này lâu, nói: “Thực ra vừa nãy ta và nhị hoàng huynh chỉ khởi động, chờ hai vị tới”.
Khương Trầm Ngư tỏ vẻ không hiểu.
Di Thù nói: “Nhị hoàng huynh nghe kể chuyện ta tỉ võ với Phan tướng quân xong, trong lòng ngứa ngáy không thôi, cũng muốn tỉ thí với tướng quân một phen”. Nói đoạn cười tươi roi rói.
Khương Trầm Ngư không khỏi nhớ tới Tần nương.
Trong ký ức của nàng, Tần nương chỉ có lúc kể chuyện mới tươi cười rạng rỡ, thần thái vui tươi, mà sau khi tiếng phách vang lên, câu chuyện kết thúc, vẻ mặt nàng lập tức ủ dột. Cho dù là đối diện với lời cầu thân của Phan Phương, giọng nói cũng vẫn nặng nề, không động thanh sắc.
Còn Di Thù lại khác. Di Thù hay cười hay nói, vẻ mặt không có một giây nào tĩnh lặng, mày liễu giương lên, khóe môi khép mở, trăm ngàn tư thế, hết mực phong tình.
Thực ra họ rất khác nhau.
Khi đã hiểu rõ điểm này, trong lòng Trầm Ngư khe khẽ thở dài, quay sang nhìn Phan Phương, Phan Phương đang đối mặt với Hàm Kỳ, Hàm Kỳ tuy đã hết sức kìm chế, nhưng đáy mắt vẫn lộ vẻ hưng phấn khó mà giấu giếm, kích động vì sắp được tỉ võ với một đối thủ như Phan Phương. Xem ra, vị hoàng tử này quả nhiên là một người cuồng võ.
Im lặng đối mặt một lúc, Hàm Kỳ giơ một tay lên, tr
Đường phố được cơn mưa rửa sạch như lau như ly, mày cửa hiệu lúc trước đóng cửa giờ lần lượt mở cửa bán hàng trở lại, người đi đường cũng đông dần lên.
Khương Trầm Ngư cụp ô, đi vào khu chợ.
Khu chợ nằm ở góc Đông Bắc Lô Loan này là khu buôn bán nổi tiếng, thương nhân đến từ bốn nước đã biến nơi này trở nên phồn hoa náo nhiệt, ngoài phố Hoa Tân thuộc về Hách Dịch nàng đi qua lúc nãy, còn có ba con phố song song chạy theo hướng Nam Bắc, mà trong đó con phố nằm ngoài cùng về hướng Đông chính là phố Vân Tường.
So với Hoa Tân có đủ loại hàng hóa, sầm uất nhộn nhịp, phố Vân Tường lại nổi danh nhờ sự phong nhã, đắt đỏ, hàng hóa bán ra đa phần là đồ cổ thư pháp, châu báu dược phẩm…
Vì thế, cho dù trong bốn phố, nó vắng vẻ nhất, nhưng trên đường toàn là hương xa bảo mã, các khách nhân đều ăn mặc sang trọng.
“Đến hiệu Sái gia trên phố Vân Tường, mua ba cân Mê Điệt hương”. Đây là lời phụ thân dặn nàng trong lá thư mật.
Cũng có nghĩa là hiệu Sái gia tọa lạc trên con phố này là một quân cờ ngầm mà Khương Trọng cài vào Trình quốc. Khương Trầm Ngư nhìn khu phố trước mặt, không kìm được khâm phục sự suy tính sâu xa, chu toàn trong thuật gián điệp của phụ thân. Ai cũng biết, nơi ẩn náu tốt nhất chính là phố chợ, nơi nhiều người qua lại cũng là nơi tin tức nhanh nhạy nhất, vì thế, khi thiết lập điểm tập hợp tin tình báo, người ta thường đặt địa điểm ở chợ. Nhưng, người ta lại quên mất một điều rất quan trọng – tin tức dân gian là tin tức thiếu chuẩn xác nhất.
Đúng như cái gọi là những lời đồn đại, tam sao thất bản, một sự việc truyền qua miệng nhiều người, ắt sẽ bị thêm mắm dặm muối, thậm chí hoàn toàn ngược lại với ý nghĩa ban đầu, cho nên, tin tức có được từ trà quán tửu lâu quá ư hỗn độn, cũng quá chậm trễ. Nhưng hiệu Sái gia thì khác, giá cả hàng hóa ở đây đắt đỏ, chuyên phục vụ các nhà hào phú, hàng hóa bán ra lại là phấn son hương liệu, trang sức châu ngọc mà nữ quyền quý tộc không thể thiếu được. Quần thể thích buôn chuyện thị phi của người khác, có quan hệ mật thiết với đương sự nhưng lại đứng ngơài sự việc này là nguồn tin đáng tin cậy, an toàn nhất trong việc thu thập tin tức của cửa hiệu. Mà điều quan trọng nhất là nơi đây mới là nơi nàng – một sứ thần đến từ Bích quốc đến cũng không khiến ai nghi ngờ.
Khương Trầm Ngư cất bước đi về phía hiệu Sái gia cách đó hơn mười trượng.
Cửa hiệu mở rộng, bên chiếc quầy cao hơn nửa người, một người có vẻ là chưởng quầy đang nói chuyện cùng một bà lão.
Trong tay bà lão còn bế một đứa bé, đứa bé khóc oa oa, bà lão vội vàng vừa đung đưa vừa dỗ cháu. Trước một giá hàng trong góc, hai người bán hàng đang chào mời một quý phu nhân xem đồ trang sức, quý phu nhân đó lấy từng chiếc vòng trong hộp ra, đeo lên cổ tay, rồi lại lắc đầu, bỏ xuống, lại đeo chiếc khác lên.
Khương Trầm Ngư càng lúc càng lại gần, có thể nhìn rõ hoa văn trên những chiếc vòng kia, còn chục bước nữa, chín bước, tám bước…
Quý phu nhân cầm một chiếc vòng Bạch Ngọc Thanh Điền lên, từ từ đeo vào tay, chất ngọc trong suốt khiến cổ tay nàng ta trông càng thêm thon thả mềm mại.
Còn cách bảy bước, sáu bước, năm bước…
Bà lão vừa dỗ đứa trẻ, vừa quay đầu sang nói với chưởng quầy: “Không hiểu vì sao hai ngày nay cháu tôi cứ quấy khóc suốt”.
Chưởng quầy an ủi: “Trẻ con ấy mà, khóc một tí mới tốt”.
Còn cách bốn bước.
Người bán hàng nói: “Phu nhân, mua chiếc vòng này nhé, chiếc này rẻ…”.
Còn cách ba bước.
Cửa hiệu đã gần trong gang tấc, Khương Trầm Ngư đột nhiên xoay người, bước vào cửa hiệu bên cạnh.
Lập tức có người bán hàng chạy tới chào hỏi: “Cô nương muốn mua đàn ạ? Mời qua bên này…”.
Bên cạnh cửa hiệu Sái gia là một hiệu bán đàn.
Khương Trầm Ngư đến trước một cây Lôi Ngã cầm, trầm ngâm không nói.
Người bán hàng liến thoắng: “Cô nương… đúng là có con mắt tinh tường, chiếc đàn này là bảo bối trấn điếm(1) của tiệm chúng tôi, do đại sư chế tác đàn Lôi Văn làm ra lúc sinh thời, cô nương xem thân đàn được làm bằng loại gỗ hông thượng hạng nhất…”.
Những lời của hắn cứ lao xao bên tai biến thành phông nền, mà phía trên phông nền ấy thứ nổi bật nhất lại là – Không ổn hiệu Sái gia có gì đó không ổn!
Là bà, lại không biết cháu mình bị rớt một chiếc giày;
Là một quý phu nhân, lại có một đôi tay có vết chai;
Là một người bán hàng, lại hoàn toàn không có kỹ năng chào mời…
Tất cả, tất cả đều không ổn.
Những chi tiết không hợp logic này ngầm cho thấy một điềm báo nào đó, vì thế, trong giây phút cuối cùng, nàng đã quay đầu, bước vào một cửa hiệu khác.
“Không phải tự khen chứ âm sắc của cây đàn này dù không phải là tuyệt thế vô song, cũng có thể xếp hàng thứ hai…”. Gã bán hàng của hiệu đàn vẫn đang thao thao bất tuyệt.
Khương Trầm Ngư đột ngột quay đầu nói: “Ta muốn thử đàn”.
Gã bán hàng sững người rồi vội vàng nói: “Được được, không vấn đề gì, cô nương, mời ngồi bên này”.
Khương Trầm Ngư ngồi xuống trước một chiếc bàn bằng ngọc, từ góc nhìn của nàng, vừa hay có thể quan sát tình hình phía bên kia đường: Bên ngoài mấy cửa hiệu bán chữ, tranh, có mấy người bán kẹo rong; cách vài bước, còn có hai tên ăn mày đang lười biếng tựa tường sưởi nắng.
Nàng càng lúc càng khẳng định suy đoán của mình.
Khách nhân trên con phố này ai lại đi mua loại kẹo rẻ tiền đó? Sao lại để cho ăn mày sưởi nắng ở đây? Hơn nữa, vừa tạnh mưa xong, đường vẫn còn ướt, ăn mày chỉ là những người nghèo túng, chứ không phải là đồ ngọc, sao hoàn toàn không bận tâm đến chuyện đường ướt mà thản nhiên ngồi đó?
Mọi điều trên chỉ dẫn đến một kết luận: Cửa hiệu Sái gia có chuyện rồi.
Vì thế, cứ điểm ban đầu nay đã trở thành cái bẫy. Vậy thì, người đối phương muốn bắt là một mình nàng hay là tất cả gian tế nước địch ẩn náu ở Trình quốc?
Cho dù là thế nào, vừa nãy chỉ cần nàng bước vào cửa thì chắc chắn sẽ bị tóm gọn. Còn như có bắt nhầm người hay không, phải trải qua dùng hình thẩm vấn mới có thể phán đoán được.
Nghĩ đến khả năng này, sống lưng nàng bất giác ớn lạnh.
Lúc này gã bán hàng lấy đàn ra, đặt lên bàn, ân cần nói: “Dây đàn đã được bôi dầu, cũng đã cân chỉnh, cô nương cứ an tâm thử đàn nhé”.
Khương Trầm Ngư(2)nghĩ một lát, giơ tay, tiếng nhạc đột ngột nổi lên, nàng đàn khúc “Hoạch lân” .
Lân hề lân hề, hợp nhân trọng nghĩa, xuất hiện đúng thời.
Bước đi đúng mực, xoay mình đúng mực, tiếng tựa nhạc khí.
Nó đi tới đâu phải chọn rõ ràng rồi mới đến, nhân đức là ở chỗ cỏ tươi chẳng xéo, côn trùng sống chẳng giẫm.
Ở chẳng cùng bầy, đi không cù bạn.
Chẳng lọt cạm bẫy, lưới thưa lồng lộng mà không vướng vào.
Lân hề một sừng năm móng, khi nó kêu lên, hội tụ càn khôn. Nay xuất hiện không đúng thời, ăn sắt sinh vàng, uổng thay cho sự phi thường của nó…
Tiếng đàn tao nhã uyển chuyển, giữa âm điệu du dương, trầm bổng đan xen, nỗi bi phẫn như sóng vỗ ào ào, nỗi thê lương tựa tiếng thở dài khe khẽ, nhịp nhịp thương tâm, tiếng tiếng khắc cốt, nhưng từ đầu đến cuối lại tràn đầy hàm ý từ bi.
Tương truyền vào thời Lỗ Ai công, có người bắt được một con kỳ lân, nhưng làm nó bị thương. Sau khi Khổng Tử nhìn thấy, cảm thấy đau lòng, không kìm được lệ ướt vạt áo.
Khúc nhạc này chia làm sáu đoạn, Khương Trầm Ngư chỉ đàn đoạn đầu tiên “Thương thời Lân hề”, nhưng cũng đủ khiến người trong hiệu chú ý, người đi đường dừng chân. Khi nàng dừng tay, một tràng vỗ tay từ hậu sảnh vang lên.
Nàng quay đầu 1ại, chỉ thấy rèm gấm tầng tầng, không thấy người sau rèm.
Tiếng vỗ tay ngừng, một tiểu đồng vén rèm đi ra, tuổi chừng mười ba, mười bốn, gương mặt tròn trĩnh, không cười mà như cười, nhìn giống như một con búp bê đất, cực kỳ dễ thương.
Chỉ thấy hắn bước nhanh đến trước bàn, dừng lại nói: “Công tử nhà ta nói cô nương chơi đàn rất hay, cái gì mà ‘vời vợi chừ, như Hoa Sơn’…”.
Sau rèm có người ho, còn có một giọng nói rít lên: “Thái Sơn! Là Thái Sơn ấy! Đồ đầu heo!”.
Tiểu đồng vội vàng sửa: “Đúng rồi, là ‘Vời vợi chừ như Thái Sơn’ cái gì ‘Mênh mông chừ như… như… như…”.
Giọng nói the thé đó lại kêu lên: “Giang Hà(3)!”.
“A đúng rồi, mênh mông chừ như Giang Hà, tóm lại là hay nhất trên trời dưới đất… Cho nên, để cảm tạ khúc nhạc này của cô nương, công tử nhà ta xin cô nương nhất định phải nhận cây đàn này!”.
Khương Trầm Ngư ngạc nhiên, đăm đăm nhìn tấm rèm buông rủ đó, hỏi: “Công tử nhà ngươi là ai?”.
“Cái này… cô nương cứ nhận là được, danh tính không cần bận tâm”. Tiểu đồng nói với gã bán hàng: “Bọc cây đàn này lại, rồi sai người mang đến nhà cô nương này”.
Khương Trầm Ngư vội vã đứng dậy nói: “Đợi đã, bèo nước gặp nhau, không dám nhận món quà quý giá như thế này”. Cây đàn này ít nhất cũng phải nghìn lượng bạc, không biết thân phận của người tặng đàn, sao nàng dám nhận bừa?
Nhưng tiểu đồng đó vẫn lắc đầu nói: “Cung tử nhà ta nói ngài tặng cô nương đàn chỉ là muốn cảm tạ khúc nhạc nàng vừa đàn ban nãy, hơn nữa, cũng chỉ người có cầm nghệ xuất chúng như cô nương mới xứng với cây đàn này”.
Khương Trầm Ngư vẫn định chối từ, sau rèm chợt có tiếng động, tiếng bước chân xa dần, dường như đối phương đã rời khỏi đó.
Tiểu đồng nhe răng cười, nói: “Công tử nhà ta đi rồi, ta cũng phải đi đây. Cô nương đừng từ chối nữa, tuy nói là cái gì nước gặp nhau, nhưng có duyên tất sẽ gặp lại. Cáo từ”. Nói đoạn quay người nhảy chân sáo chạy đi.
Khương Trầm Ngư nhìn thấy một cỗ xe ngựa có nóc xe màu xanh sậm nhanh chóng rẽ ngoặt ở góc phố rồi biến mất.
Gã bán hàng bên cạnh nói: “Vậy để tiểu nhân bọc đàn lại cho cô nương, không biết phủ đệ của cô nương ở đâu? Tiểu nhân sai người đem đàn tới”.
Khương Trầm Ngư hỏi: “Ngươi có biết người tặng đàn là ai không?”.
“Chỉ biết là một công tử nhà giàu, đến sớm hơn cô nương một chút, đang ngồi xem đàn trong hậu sảnh, không ngờ chẳng mua gì cho mình nhưng lại mua đàn tặng cho cô nương”. Gã bán hàng vừa nói vừa cười ám muội, “Nhưng, cầm nghệ của cô nương đúng là tuyệt thế vô song, vị công tử đó tặng đàn cảm tạ tri âm, cũng coi là một câu chuyện đẹp”.
Khương Trầm Ngư nhất thời im lặng. Nàng đàn khúc này vốn chỉ muốn thăm dò cửa hiệu sát vách có phản ứng thế nào, xem xem những quân cờ ngầm của phụ thân bị quét sạch một mẻ, hay là vẫn còn cá lọt lưới, có lẽ sau khi nghe tiếng đàn của nàng, họ sẽ đoán được nàng đã đến, sẽ nghĩ cách truyền tin.
Mà nay, chưa do thám được động tĩnh của láng giềng, ngược lại tự dưng lại nhận được cây đàn này, đúng là “cố ý trồng hoa hoa chẳng nở, vô tình cắm liễu liễu xanh um”.
Lại nhìn cửa hiệu Sái gia vẫn không có động tĩnh xem ra hôm nay sẽ chẳng thăm dò được gì, nàng cũng không thể ở đây quá lâu để tránh để lộ thân phận, nàng bèn cho gã bán hàng địa chỉ của dịch trạm, còn mình đi bộ về.
Không ngờ vừa về đến dịch trạm, đã nhìn thấy cỗ xe ngựa có mái xe màu xanh sẫm trước sân.
Nàng vội hỏi: “Đây là xe ngựa của ai?”.
Lý Khánh đáp: “A, cô nương ra ngoài hai ngày nên không biết, đây là xe ngựa của sứ thần Yên quốc”.
“Sứ thần Yên quốc đến rồi sao? Là ai vậy?”.
“Nói ra thật khó tin, Yên vương đích thân đến”.
Khương Trầm Ngư khựng lại, kinh ngạc hỏi: “Cái gì? Yên vương?”.
“Đúng thế, ai mà ngờ được chứ. Lần này, Trình vương quả là hãnh diện, Nghi vương và Yên vương đã đến cả…”. Lý Khánh than.
Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn cỗ xe ngựa nhìn có vẻ bình thường đó, trong lòng cảm thấy vừa căng thẳng vừa bất an. Trong các quân chủ của bốn nước hiện nay, Chiêu Doãn tươi trẻ nhất, thời gian lên ngôi cũng ngắn nhất, bên ngoài bình luận y, phần lớnà lông cánh chưa đủ, bị thần tử khống chế, năm nay y đột nhiên trừ sạch Tiết gia, đích thân nắm quyền, bình luận chuyển thành kiên nhẫn cố chấp, lòng dạ sâu xa; bình luận về Nghi vương là tốt nhất, phóng khoáng thân dân, hài hước phong nhã, đã chấp chính sáu năm, trong nước không có chuyện lớn phát sinh, cũng không có điều gì thất đức; Minh Cung tuổi tác cao nhất, khi còn tráng niên ít lời vô sỉ, lật lọng là chuyện cơm bữa, hơn nữa hiếu chiến ham công, bị các nước xung quanh coi thường, nhưng con dân Trình quốc lại có một sự sùng bái thâm căn cố đế, thậm chí có thể nói là mù quáng điên cuồng đối với lão, tóm lại, Minh Cung là một quốc quân tương đối phức tạp…
Thế nhưng nếu nói đến người thực sự có phong độ đế vương thì đó chính là Yên vương Chương Hoa.
Cả đời Chương Hoa có thể nói là xuôi chèo mát mái, do quốc mẫu chính thống sinh ra(4), vừa ra đời đã được thụ phong thái tử, bình an đến lúc mười bảy tuổi, lão Yên vương đột nhiên nhìn thấu hồng trần, xuất gia làm hòa thượng, vì thế thuận lợi truyền ngôi cho con trai duy nhất. Mà Yên vương lại có một vị hảo thừa tướng một lòng trung thành, phò tá y đến năm hai mươi tuổi, mọi việc thành thục, trong nước không ẩn họa ngầm, bên ngoài chẳng mối âu lo, lão thừa tướng mới từ quan cáo lão, vân du thiên hạ. Mà con người Chương Hoa cũng đúng như lời y tự thuật: “Duy có Hách Dịch rực rỡ sáng chói rạng rỡ như vũ trụ nhật nguyệt, mới có thể sánh với ta”.
Yên quốc được y thống trị, binh tức mã cường, nước giàu dân mạnh, sức mạnh tổng hợp có thể coi là đứng đầu bốn nước, y chấp chính sáu năm, cất nhắc người tài không thiên vị đảng phái, cho gánh vác nghiệp lớn, để họ dốc hết kỳ tài. Nghe theo lẽ phải, tế thế an dân, công ích hiển hách.
Nếu muốn nói y có uy vọng thế nào, có một việc có thể chứng minh.
Tội tử hình của Yên quốc phải qua ba lần tấu, thẩm, phê mới có thể thi hành.
Vào năm Hoa Trinh thứ tư, trong cả nước người bị khép vào tội chết tổng cộng có bốn mươi chín người. Vừa hay trùng dịp năm mới, Chương Hoa hạ lệnh cho bốn mươi chín người này về nhà đón Tết cùng gia đình, qua mùa thu năm sau trở về thụ hình, kết quả tất cả bốn mươi chín người đều trở về đúng ngày, không ai bỏ trốn.
Việc này truyền đến ba nước còn lại, ai cũng kinh ngạc.
Ebook: Mèo
Nguồn: Ebook Fun&Free
Sau Tết, Chiêu Doãn lập tức phái Tiết Thái đi sứ Yên quốc, cũng vì thế dệt nên giai thoại Chương Hoa tặng tuyệt thế mỹ ngọc “Băng Ly” cho Tiết Thái.
Còn nay, vị đế vương nổi danh này cũng đến Trình quốc? – Hơn nữa, vừa nãy còn tặng nàng một cây đàn.
Cho dù Khương Trầm Ngư có trầm ổn, trấn tĩnh thế nào đi nữa, trái tim vẫn không chịu nghe lời mà đập điên cuồng, khi cất tiếng, giọng nói gấp gáp hẳn lên: “Yên vương bây giờ ở đâu?”
“Yên vương cũng ở đây, nhưng vừa nãy trong cung có người mời ngài đi rồi”.
Lời vừa dứt, một người từ trong nhà chạy ra, bù lu bù loa kêu lên: “Làm cái gì thế, ta mới chợp mắt một lúc, tất cả đều bỏ ta mà đi hết cả? Ta…”. Đang gào dở chừng, ngẩng đầu thấy Khương Trầm Ngư, kinh ngạc lắp bắp: “A, cô nương… đánh đàn”.
Người này không phải ai khác mà chính là tiểu đồng vừa tặng đàn cho nàng. Khương Trầm Ngư cũng sững sờ nhìn hắn, cảm thấy miệng hắn mấp máy, dường như lại nói gì đó, nhưng âm thanh bỗng trở nên mơ hồ, người hắn cũng từ một mà hóa thành mấy người, trời đất bắt đầu quay cuồng, tầm nhìn tối sầm lại. Nàng chỉ kịp nói một tiếng “ta” liền ngất lịm đi.
Trời đất tối đen.
Cơ thể giống như đang bị thiêu đốt trên ngọn lửa cháy rừng rực, xương cốt và tứ chi đều đau nhức khôn tả, rõ ràng trước mắt tối sầm, nhưng có thể loáng thoáng nghe thấy những giọng nói đứt quãng: “Ôi con gái thứ ba của hữu tướng Khương Trọng, phúc thừa Hoa tộc, lễ vượt nữ sư… vậy nên mệnh cho ngươi làm Thục phi, chọn ngày tiến cung…”.
“Khi còn nhỏ Trầm Ngư rất sợ đau… bây giờ, xin công tử hãy xỏ lỗ tai cho ta, coi như là quà mừng Trầm Ngư xin công tử…”.
“Trẫm muốn nàng, cùng Phan Phương, Giang Vãn Y đi Trình quốc…”.
“Đừng cho rằng làm nũng là ta có thể tha thứ cho muội…”.
“Ngu thị, hãy liên thủ với ta”. “Trẫm là đế vương…”.
Rất nhiều giọng nói đan xen với nhau, hỗn loạn, lặp lại không ngừng, giống như một sợi dây thừng quấn lấy nàng, sau đó từ từ thít chặt, rất đau, đau đến mức nàng không nói được, thậm chí không thở được.
“Tiểu thư của Khương gia?”. Một giọng nói mềm mại như nước, nhẹ nhàng như gió đã vang lên như thế.
“Sắc trời không còn sớm, Anh đưa tiểu thư về phủ”.
“Tiểu thư hẹn Anh đến đây, ắt là có chuyện, đã có chuyện, là ai hẹn có can hệ gì sao?”.
“Là Anh hành sự đường đột, vội vã truyền tin, hy vọng không quấy rầy chính sự của tiểu thư”.
“Tiểu thư…”. “Tiểu thư…”. “Tiểu thư…”.
Đừng, đừng, nàng không muốn nghe tiếp, đừng gọi nữa… “Ngu thị…”.
“Tiểu Ngu…”.
Hai giọng nói khác xen vào, Khương Trầm Ngư điên cuồng giãy giụa, bỗng nàng run lẩy bầy, mở choàng mắt. Thoạt đầu trước mắt vẫn tối đen, sau dần dần sáng tỏ, đập vào mắt nàng là một gương mặt mi thanh mục tú mang thần sắc thương xót âu lo quen thuộc mà ấm áp. Thế nên, một tiếng gọi tự nhiên bật ra: “Sư huynh…”.
Giang Vãn Y mỉm cười với nàng, giọng nói ấm áp như ánh mặt trời: “A Ngu, muội tỉnh rồi?”.
“Sư huynh, muội làm sao vậy?”.
“Muội bị bệnh. Nhưng đừng sợ, sẽ mau khỏi thôi”. Gương mặt hắn rất dịu dàng, nụ cười vô cùng điềm tĩnh, tựa như chỉ cần có hắn ở đây, nàng không cần sợ hãi bất cứ nỗi đau nào.
Khương Trầm Ngư có được lời đảm bảo, liền nhắm mắt thiếp đi, và lần này, cơn ác mộng đã biến mất.
Khi nàng tỉnh lại lần nữa, ánh nắng ngập tràn, Giang Vãn Y đã không còn ở bên giường, chỉ có Hoài Cẩn mừng rỡ đặt chiếc hộp trong tay xuống, chạy qua hỏi: “Tiểu thư, tiểu thư tỉnh rồi? Tiểu thư thấy đỡ hơn chưa?”.
Khương Trầm Ngư ôm chăn, từ từ ngồi dậy, “Đầu ta vẫn còn đau lắm”.
“Tiểu thư mới hạ sốt, đầu vẫn còn hơi nặng, hầu gia đã kê đơn thuốc, bây giờ đang sắc, một lát nữa là xong”. Hoài Cẩn lấy gối kê sau lưng nàng.
“Sư huynh đâu?”.
“Tiểu thư bệnh liền ba ngày, mấy ngày nay hầu gia đều túc trực chăm sóc tiểu thư, không được nghỉ ngơi tử tế, vừa nãy trong cung có người đến gọi ngài đi rồi”.
Khương Trầm Ngư áy náy, mình quả nhiên gây phiền phức rồi. Rõ ràng biết trách nhiệm mỗi người phải gánh vác đều không nhẹ nhàng, đặc biệt là Giang Vãn Y, là đại phu nên bận rộn, vất vả nhất, vậy mà nàng lại ngã bệnh đúng lúc này, gây thêm rắc rối cho hắn. Lúc đó nhảy xuống hồ chỉ vì cao hứng nhất thời, bây giờ hại mình không nói, còn liên lụy đến người khác.
Hoài Cẩn thấy nàng không vui, cũng tự đoán được vài phần, vội chuyển chủ đề khác: “Nhưng tiểu thư thật là có thể diện, nghe nói tiểu thư bệnh, số lễ vật này giống như thóc đổ vào kho, không ngừng cuồn cuộn đổ tới!”.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, quả nhiên ở góc tường, trên bàn ghế bên ngoài chất đầy hộp quà.
Hoài Cẩn cười nói: “Trong đó dĩ nhiên lễ vật của Nghi vương bệ hạ là nhiều nhất, hầu gia nói chỉ riêng sơ lễ vật Nghi vương tặng đã đủ mở một hiệu thuốc nhỏ rồi. Ba vị hoàng tử của Trình quốc cũng tặng toàn đồ bổ trân quý. Nhưng, kỳ lạ nhất là Yên vương cũng tặng lễ vật, nhưng lễ vật của ngài không giống người khác, tiểu thư xem xem?”. Nói đoạn lấy ra một chiếc hộp nhỏ, mở ra cho nàng xem.
Trong chiếc hộp nhỏ có mấy tờ giấy. Khương Trầm Ngư cầm lên xem, hóa ra là một khúc phổ, trang đầu tiên viết ba chữ “Phổ Am Chú”, phía dưới còn viết một hàng chữ nhỏ: ‘Thuốc chữa được bệnh, nhạc chữa được tâm. Trong ngoài thấu triệt, tịnh không tì viết”.
Nét chữ nguệch ngà nguệch ngoạc, tựa như người mới học viết, hơn nữa vết mực còn ướt, xem ra mới viết chưa lâu, chữ Tâm hơi nhòe, chữ “Vết” cũng viết nhầm thành chữ “Viết”.
Khương Trầm Ngư bất giác nhoẻn cười: “Là tiểu đồng của Yên vương đưa tới đúng không?”.
“Chính là cái người nói chuyện với tiểu thư lúc tiểu thư ngất xỉu hắn tên là Như Ý. Bên cạnh Yên vương có hai tiểu công công, một là hắn, ngoài ra còn một người tên là Cát Tường”.
Không cần nói, chữ trên khúc phổ này chắc chắn là do tên Như Ý học hành bát nháo đó viết. Vị Yên vương này thật thú vị tặng đàn tặng khúc đều không tự mình lộ diện, chỉ sai một tên hề đứng ra làm mất thể hiện, thật không biết là cố ý hay là quá dung túng.
Cười xong, Khương Trầm Ngư lại nhìn những chiếc hộp chất đầy căn phòng, hỏi: “Ngoài ra còn có ai tặng lễ vật nữa?”.
“Thượng vàng hạ cám đều có cả, quan viên của Trình quốc, sứ thần cùng đến với chúng ta…”.
“Em có mở ra xem từng món quà không?”.
Hoài Cẩn lấy ra một cuốn số nhỏ, trình lên trước mặt nàng: “Em đã ghi danh sách lễ vật và tên người tặng ở hết trong này”.
Khương Trầm Ngư không kìm được gật đầu hài lòng, ban đầu chọn mang theo Hoài Cẩn mà không phải Ác Du cũng chính vì Hoài Cẩn làm việc chu đáo cẩn thận, rất nhiều việc không cần nàng dặn dò, đều tự giác làm tốt. Nàng cầm lấy cuốn sổ, chậm rãi giở ra xem, ánh mắt lướt qua từng hàng tên tuổi, trong lòng trầm ngâm.
Nghi vương tặng quà, nàng không bất ngờ, Di Phi tặng quà nàng cũng không bất ngờ, nhưng Hàm Kỳ tặng quà thì có hơi khiên cưỡng, nàng chẳng qua cũng chỉ là một sứ giả của Bích quốc, cho dù có chút địa vị, nhưng cũng không quan trọng đến mức khiến tất cả mọi người đều lũ lượt tặng lễ vật.
Tại sao Hàm Kỳ lại tặng thuốc cho nàng? Là để cảm tạ nàng hôm ở bến cảng đã đi theo hắn mà không theo Di Phi? Nàng nghĩ không ra.
Còn như Lân Tố thì lại càng khiên cưỡng, nàng và Hàm Kỳ còn có chút giao tiết, nhưng nàng chẳng hề có quan hệ gì với vị đại hoàng tử này, tại sao y cũng tặng lễ vật cho nàng?
Ngoài ra còn có một số quan viên của Trình quốc, họ thấy các vị điện hạ bệ hạ đều tặng, cho nên cũng bắt chước? Hay là còn có nguyên nhân nào khác?
KhươngTrầm Ngư vừa nghĩ vừa xem, ánh mắt bỗng dừng lại ở một cái tên.
Nàng trầm ngâm giây lát, quay đầu hỏi: “Sư huynh có nói bệnh của ta bao giờ khỏi không?”.
“À, hầu gia chỉ nói để tiểu thư tĩnh dưỡng cẩn thận, không nói gì khác. Tiểu thư có chỗ nào khó chịu sao?”.
“Ừm”. Trầm Ngư gật đầu.
Hoài Cẩn ngẩn người: “Hả?”. Nhưng rõ ràng trong khí sắc tiểu thư đã tốt hơn rất nhiều mà…
“Bệnh của ta không phải dăm bữa nửa tháng là khỏi được, nếu lại có lễ vật gửi tới thì cứ nhận hết”. Khương Trầm Ngư đọc cuốn sổ, thuận miệng hỏi: “Công chúa Trình quốc cũng tặng quà à…”.
Hoài Cẩn che miệng cười, “Tiểu thư, tiểu thư không biết à?”.
“Biết cái gì?”.
Lễ vật của Di Thù công chúa do công chúa đích thân đem đến đó. Không chỉ như thế, công chúa hiện đang ở đây, bây giờ đang nói chuyện với Phan tướng quân trong hậu hoa viên”.
Bờ mi của Khương Trầm Ngư run run, nàng không hề ngạc nhiên vì Di Thù động lòng sau khi nghe câu chuyện của Phan Phương, chỉ có điều, nàng không ngờ vị công chúa này lại đến nhanh như thế, thẳng thắn như thế.
Mà trong hậu hoa viên cách đó tầng tầng tường viện, Di Thù đang trò chuyện với Phan Phương dưới tán cây ngọc lan.
“Nghe nói ta rất giống vong thê của tướng quân?”. Sự thực chứng minh, Di Thù còn thẳng thắn hơn Khương Trầm Ngư nghĩ, khi nàng ta hỏi câu này, trên gương mặt không hề có vẻ gì là thẹn thùng, hoa ngọc lan bừng nở sau lưng nàng ta, càng tôn lên vẻ đẹp diễm lệ say đắm lòng người.
Phan Phương chăm chú nhìn Di Thù, ánh mắt hơi tối.
Di Thù cười tươi như một đóa hoa: “Cho nên, trong bữa tiệc đêm đó, tướng quân mới rơi lệ trước mặt mọi người?”.
Phan Phương lại nhìn nàng ta chằm chằm hồi lâu mới chậm rãi mở miệng, nói: “Phụ thân của A Tần và phụ thân ta là chiến hữu, nàng mồ côi mẹ từ nhỏ, phụ thân cũng không quá nghiêm khắc, khi còn nhỏ nàng rất nghịch ngợm, trèo cây nghịch nước, chơi đùa đánh nhau, không khác nam nhi là bao”.
Di Thù ngưng cười, nghiêm túc lắng nghe.
“Vì thế, làn da của nàng rám nắng, phía sau tai trái còn có một vết sẹo nhỏ do bị đá cứa, chỗ đó cũng không mọc được tóc”.
Di Thù vô thức đưa tay sờ phía sau tai trái.
“Phía dưới mắt trái của nàng có một nốt ruồi nhỏ. Hơi nhỏ thường bị chúng ta chê cười, nói là nốt ruồi lệ, nhưng trong ấn tượng của ta, nàng chưa bao giờ khóc. Cho dù khi Tần bá phụ chết nơi sa trường, cho dù năm ta mười ba tuổi đi tòng quân buộc phải rời xa nàng, cho dù người chồng trước của nàng bị bệnh qua đời, nàng cũng chưa từng nhỏ một giọt lệ nào”.
Di Thù lộ vẻ áy náy, dường như cũng ý thức được rằng, so bì với một người đã chết, đặc biệt là so bì với người đã chết mà đối phương yêu sâu sắc, thì thật là không phải, liền lập tức ngại ngùng nói: “Xin lỗi, là Thù thất lễ.”
Phan Phương vẫn không tỏ cảm xúc, chỉ có vẻ thâm trầm, một vẻ thâm trầm mà ai cũng không hiểu rõ được, lời nói cũng vẫn rất ôn hòa, “Ta kể với công chúa những điều này, không phải là muốn chứng minh hai người khác nhau thế nào”.
Di Thù thoáng ngạc nhiên ngẩng đầu.
Phan Phương nhìn nàng ta, nói tiếp: “Sự thực thì giây phút nhìn thấy công chúa, ta rất vui”.
“Vui?”
“Đúng thế”, Phan Phương thu lại ánh nhìn, quay sang cây ngọc lan bên cạnh, sự thâm trầm không cảm xúc dần dần nhạt đi biến thành một nụ cười như gió thoảng, “Bởi vì, tuy A Tần đã mất, nhưng thế gian này còn có một số thứ, một số thứ vô cùng tươi đẹp khiến ta nhớ đến nàng, khi nhìn những thứ đó nàng dường như vẫn còn trên nhân thế, chưa hề đi xa, cũng chưa hề bị lãng quên, cho nên ta rất vui. Cho nên cảm ơn nàng, công chúa”.
Biểu tình của Di Thù lại thay đổi, cuối cùng, nàng quay đầu cao giọng nói: “Người đâu, đem thương của ta qua đây”.
Lập tức có thị vệ bưng một cây trường thương rất đẹp, toàn thân trắng toát, duy chỉ có đầu thương gắn một túm ngù đỏ đỏ chói mắt đỏ rực rỡ, thân thương cao bằng hai người, mà Di Thù một tay nắm lấy, nhẹ nhàng vung lên múa một cách đẹp mắt, toàn bộ động tác như nước chảy mây trôi, dứt khoát mạnh mẽ.
Khương Trầm Ngư được Hoài Cẩn dìu đến hậu hoa viên, đã nhìn thấy cảnh tượng như thế này: Chỉ nghe Di Thù nói: “Nước ta xưa nay sùng võ, từ lâu đã nghe nói tướng quân võ nghệ siêu quần, giỏi dùng trường thương, mười sáu tuổi đánh bại đại tướng quân Nghi quốc Nhan Hoài, mười chín tuổi thụ phong Khinh xa tướng quân, mà nay lại vừa đánh bại Đệ nhất danh tướng tứ quốc Tiết Hoài. Cho nên, Thù bất tài, muốn lĩnh giáo vài chiêu với tướng quân”.
Phan Phương như định từ chối, Di Thù lại tiếp: “Tướng quân cũng là kẻ học võ, nên lấy võ đạo kính ta, không cần nói những lời như thân thể ngàn vàng, không dám mạo phạm”.
Phan Phương lại im lặng.
Khương Trầm Ngư đứng một bên, khép chặt áo khoác, trong lòng không rõ là vui hay buồn. Di Thù khiêu chiến Phan Phương, thắng nàng ta, Trình quốc mất thể diện, thua nàng ta, e là công chúa tâm cao khí ngạo y cũng không coi Phan Phương ra gì, nhưng để không thắng cũng không thua, thực sự rất khó. Đương nhiên Phan Phương võ nghệ cao thâm, nhưng nghe nói Di Thù cũng không yếu đuối, cho dù là Hàm Kỳ cũng chưa chắc là đối thủ của muội muội. Trận đấu này… không biết là họa hay là phúc đây…
Đúng lúc này, một giọng nói đột ngột vang lên: “Ta cá công chúa thắng!”.
Khương Trầm Ngư quay đầu nhìn, thấy hai thiếu niên từ xa bước tới, tướng mạo giống hệt nhau, một người mặc áo lam, một người mặc áo đỏ, trong đó một người là Như Ý, vậy người kia chính là Cát Tường.
Hai thiếu niên nhìn thấy nàng, áo lam cười ngọt như mật: “Ngu cô nương bệnh đã đỡ chưa? Có thể ra ngoài rồi à? Hôm đó cô nương tự nhiên ngất xỉu, hại ta sợ gần chết”.
Khương Trầm Ngư nhún mình bái tạ: “Thiếp thân thất lễ, khiến công công kinh sợ. Đúng rồi, đa tạ khúc phổ của Yên vương bệ hạ, bao giờ khỏe hơn, ta sẽ đích thân tới tạ ơn”.
Như Ý áo lam vội vàng xua tay: “Không cần đâu, công tử nói tặng cô nương đàn và bản nhạc đều chỉ là tặng những thứ đó cho chủ nhân thích hợp nhất của chúng mà thôi. Nếu như thực sự phải cảm tạ, thì hãy cảm tạ ông trời đã sinh ra cô nương như chung… cái gì mà tú ấy”.
Cát Tường áo đỏ lộ vẻ xấu hổ, gắt lên: “Chung linh dục tú(5) đồ ngốc! Không biết thì đừng nói, đừng có dùng thành ngữ bốn chữ, ngươi không biết thế nào là giấu dốt à?”.
“Ngươi quản ta? Ta cứ thích nói thành ngữ đấy! Đến thánh thượng còn không quản ta…”.
“Đó là do ngài tuyệt vọng với ngươi rồi, có biết không?”.
Hai người cãi qua cãi lại, khiến Phan Phương và Di Thù đứng một bên cũng thấy bối rối, vốn là một cảnh tượng kích động khiến người ta căng thẳng nghiêm trang, lại bị quấy đảo không còn chút không khí căng thẳng nào nữa.
Di Thù đành ho một tiếng, lại nâng trường thương lên nói: “Mong tướng quân thành toàn”.
Phan Phương im lặng một hồi rồi mới đáp: “Đao kiếm không có mắt, công chúa cẩn thận. Có chỗ nào đắc tội, mong được lượng thứ”.
Di Thù cả mừng, biết y nhận lời, vội vàng sai tùy tùng mang thương đến cho y. Hai thương đối đầu, sát khí bao trùm, đến Cát Tường, Như Ý cũng ngừng đấu khẩu, cùng quay đầu lại.
Như Ý bước lên, khẽ giật giật tay áo Khương Trầm Ngư nói: “Ngu cô nương chúng ta tránh ra phía sau một chút đi, cẩn thận kẻo bị thương”.
Khương Trầm Ngư không ngờ hắn lại quan tâm nàng như thế, trong lòng ấm áp, vội vàng lùi về phía sau, những thị vệ khác cũng lần lượt lùi, chừa khoảng trống đủ cho hai người tỉ thí.
Di Thù nói “Đắc tội rồi”, ngù đỏ như rắn nhảy lên đâm thẳng vào tim Phan Phương.
Khương Trầm Ngư không hiểu võ công, vì thế chỉ cảm thấy trước mặt một màn hỗn loạn, thân thương trắng toát, tua ngù màu đỏ cùng với y phục Di Thù mặc kết thành ba dải màu, tầng tầng vây quanh Phan Phương, dần dần nuốt trọn.
Bên cạnh, Như Ý nghênh ngang bình luận: “Ở, thương pháp của công chúa Trình quốc quả nhiên xuất sắc, chiêu Linh Xà Xuất Động này rõ ràng là Trình vương đích thân truyền thụ, điêu luyện nhuần nhuyễn… A, thương này hiểm quá! Tuy nói thương pháp của Trình quốc nổi tiếng là nhanh, đánh vào chỗ không phòng bị, mấu chốt là giành được tiên cơ, nhưng hai quân giao tranh, thời cơ là then chốt nhất, chỉ tấn công nhanh thế này, ngược lại thành lỗ mãng… Nhìn kìa, tránh được rồi? Ầy so với tốc độ của công chúa, Phan tướng quân thật là chậm, có điều lúc này lấy tĩnh chế động đúng là kế hay…”.
Khương Trầm Ngư ngạc nhiên hỏi: “Tiểu công công biết võ?”.
Như Ý còn chưa kịp trả lời, Cát Tường đã cười phì, nói: “Hắn đích thực biết võ công, đáng tiếc là chỉ biết nhìn rồi bình luận, chứ để hắn đích thân lên đài, tuyệt đối không làm ăn được gì đâu”.
Như Ý mặt đỏ lựng, hừ một tiếng nói: “Thế thì đã làm sao? Ta thân thể cao quý, còn cần tự mình động thủ sao? Huống hồ, thực khách chỉ cần sành ăn là được rồi, đâu cần tự mình xuống bếp… A! Phan tướng quân nguy hiểm!”.
Khi hắn la lên nguy hiểm, trường thương Di Thù linh động đâm vào hai mắt Phan Phương bằng một tốc độ cực kỳ nhanh, mà Phan Phương đang ở giữa không trung, không thể tránh, cũng không thể trốn, nhìn thương sắp đâm vào mắt, nhưng đúng giây cuối lại chệch đi, chỉ nghe một tiếng động khẽ, đầu thương đâm vào cánh tay trái của y.
Đồng thời, y đáp xuống đất, lùi lại ba bước.
Khương Trầm Ngư trong lòng lo lắng – thua rồi!
Trên sân hai người bất động, ngoài sân im lặng như tờ.
Như Ý trợn mắt, lộ vẻ không hiểu được.
Còn Di Thù giữ nguyên động tác đâm, một lúc sau, cánh tay nhấc lên, thu hồi trường thương, nhưng thân thương và mũi thương gãy rời, đầu thương vẫn cắm trên tay Phan Phương.
Nàng ta nhìn cây thương gãy của mình, tựa như si ngốc, cuối cùng ngẩng đầu nhìn Phan Phương, mãi không nói gì.
Phan Phương cười nhạt: “Ta thua rồi”.
Vẻ mặt Di Thù lại biến đổi, có vẻ vô cùng cổ quái, sau chót cúi đầu, thong thả nói: “Đã nhường…”, ngừng lại một lát, nói thêm một câu: “Đa tạ”, lại ngừng lại như nghĩ ngợi gì đó, ngẩng đầu lên nói: “Vết thương của tướng quân…”.
Phan Phương không để tâm, đáp: “Vãn Y trở về sẽ tự biết xử lý”.
Di Thù gật đầu, vứt cây thương cho thị vệ bên cạnh: “Chúng ta đi”. Cứ như vậy đi không còn một ai.
Nàng ta vừa đi, Khương Trầm Ngư vội vàng chạy tới, hỏi: “Tướng quân, vết thương của ngài…”.
Phan Phương giữ tay nàng lại, im lặng lắc đầu, trong mắt lóe lên một tia dị sắc. Khương Trầm Ngư hiểu ý, dịu dàng nói: “Cho dù thế nào phải về phòng cầm máu đã”. Nàng lập tức sai người dìu y về phòng.
Về tới phòng, nàng cho người xung quanh lui ra hết, đích thân lấy hòm thuốc, đang nghĩ phải làm – thế nào nhổ đầu thương ra, chỉ thấy cơ bắp trên cánh tay Phan Phương đột ngột gồng lên, sau đó đầu thương tự nhiên trồi lên, rơi cạch trên mặt bàn.
Khương Trầm Ngư vội vã cầm máu băng bó cho y, hỏi: “Tướng quân cố ý thua công chúa?”.
Phan Phương lạnh nhạt “ừ” một tiếng.
“Tại sao?”.
Ánh mắt Phan Phương rơi trên mũi thương đó.
Khương Trầm Ngư cầm mũi thương lên quan sát kỹ lưỡng, Phan Phương giải thích: “Thuật luyện sắt của Trình quốc đứng đầu bốn nước, cây thương Di Thù sử dụng lại là tinh phẩm ngàn cây mới có một”.
Lúc trước đứng xa nhìn chỉ coi đó là một cây thương bình thường, mà nay cầm trong tay mới biết còn có huyền cơ. Đầu thương sắc nhọn đã đành, bên trong còn giấu bảy mũi móc câu, ngoài ra còn có rãnh trũng. Tinh xảo như thế nhưng đặt trong tay lại nhẹ bẫng, thật là khiến người ta thán phục.
Khương Trầm Ngư nói: “Cho nên tướng quân mới cố ý thua, chịu một thương của công chúa để giữ lại mũi thương này?”.
Phan Phương lắc đầu. Thấy nàng không hiểu, bèn giải thích: “Ta giữ lại mũi thương là cố ý, nhưng chịu một thương của công chúa là bất đắc dĩ”.
“Hả?”.
“Bởi vì, ta muốn cứu nàng ấy”.
“Cái gì? Sở dĩ Phan Phương thua là vì hắn muốn cứu Di Thù?”.
Cùng lúc đó, trong một căn phòng khác của dịch trạm, kết luận tương tự cũng được nói ra từ miệng một người khác.
Trong căn phòng bố trí đơn giản nhưng cực kỳ thoải mái, nam tử mặc áo tím mỉm cười: “Không sai, chính là để cứu người”.
Như Ý bĩu môi: “Sao có thể thế được? Khi đó rõ ràng thần nhìn thấy hắn không thể trốn được…”.
“Trước đó, có phải Di Thù đã dùng chiêu Phi Long Quy Hải, còn Phan Phương dùng thương chặn lại, mượn lực thuận thế bay lên?”.
Như Ý cả kinh: “Không phải thánh thượng không có mặt ở đó sao? Làm sao người biết được?”
Cát Tương được thể xen vào: “Phì, trên đời có chuyện gì mà thánh thượng không biết?”.
Người áo tím chỉ cười cười: “Phan Phương ở giữa không trung, không sức chống đỡ, toàn thân sơ hở, vốn là thời cơ tuyệt vời, nhưng phải biết rằng, không phải tất cả mọi người đều có thể dễ dàng lách khỏi ngọn thương của Di Thù, đặc biệt là chiêu Phi Long Quy Hải tinh diệu như thế, chiêu đó muốn thi triển, hẳn phải dùng ít nhất tám thành công lực, hơn nữa đã đâm là phải trúng, nếu không nội lực sẽ phản lại làm bản thân bị thương. Di Thù dùng chiêu này, vốn tưởng đã giành chắc phần thắng, không ngờ Phan Phương lại dễ dàng hóa giải. Nàng ta thấy Phan Phương bay lên, không nỡ bỏ qua thời cơ tốt, vì thế gấp rút tấn công, không màng đến nội lực phản lại, thương đi nửa chừng, nếu phía trước không có chỗ dụng lực sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Phan Phương vì không muốn nàng ta bị thương, bèn dùng cánh tay đỡ lấy một thương đây cũng là nguyên nhân vì sao mũi thương gãy rời”.
Như Ý vò đầu, nói: “Ra là thế sao…”.
Cát Tương cốc vào đầu hắn: “Cái gì là như thế sao? Lời thánh thượng nói, ngươi còn dám hoài nghi, đúng là ngày càng không biết phép tắc!”.
Người áo tím cười ha ha: “Ngươi theo ta gần hai năm rồi, học văn không thành, học võ cũng chỉ hời hợt, nên nghiêm túc xét lại bản thân”.
Như Ý cúi đầu, đáp: “Mới chưa đến hai năm đã mong nô tài tiến bộ vượt bậc, cũng quá nghiêm khắc, nô tài không phải là Tiết Thái của Bích quốc… Ai da!”. Nói đến đây, bị Cát Tương nhéo một cái đau điếng.
Nụ cười trên gương mặt người áo tím biến mất, dõi trông bầu trời bên ngoài cửa sổ, buồn bã nói: “Tiết Thái…”.
Nơi chân trời, ráng chiều như gấm, thế nhưng nó cách phàm trần tục thế quá xa, xa không thể với tới được.
Mà dưới ráng chiều xa thẳm ấy, Khương Trầm Ngư nói: “Trong lòng công chúa cũng rất rõ là tướng quân cứu nàng ta, cho nên vẻ mặt mới kỳ quái như vậy?”.
Phan Phương “ừm” một tiếng, “Có điều, ta còn có một chuyện không hiểu”. “Xin tướng quân cứ nói”.
Phan Phương chỉ mũi thương đó, nói; “Thương này chế tạo tinh xảo không cần nhắc đến, nhưng chất liệu của nó là loại sắt hiếm tám màu thượng đẳng, tuy nhẹ nhưng cực kỳ cứng. Nhưng theo ta biết trong khắp Trình quốc, không nơi nào có loại sắt này”.
“Ý của tướng quân là loại sắt này mua từ nước khác về?”.
Phan Phương gật đầu: “Trình quốc nước nhỏ đất cằn, khoáng sản không nhiều, nhưng họ lại có vũ khí mạnh nhất, hơn nữa số lượng dồi dào, chất lượng tuyệt đỉnh, vượt xa các nước khác. Thế là vì sao? Là ai bán sắt cho bọn họ?”.
Đáp án đầu tiên mà Khương Trầm Ngư nghĩ tới chính là: “Nghi vương?”.
Phan Phương lắc đầu: “Nghi quốc cũng không có loại sắt này”.
Khương Trầm Ngư nhíu mày.
Sắc mặt Phan Phương nghiêm nghị, nén thấp giọng nói: “Loại sắt này chỉ có Quyển Nhĩ sơn ở Hồng Diệp Hương trong Bích quốc mới có, vì số lượng cực kỳ ít nên vô cùng quý hiếm, chỉ dùng để tiến cống, cấm mua bán trong dân gian”.
Lòng Khương Trầm Ngư chùng xuống, cuối cùng ý thức được sự nghiêm trọng của sự việc – Sắt tiến cống của Bích quốc biến thành vũ khí của công chúa Trình quốc, là biếu tặng? Hay là mua bán? Là ai có quyền đem tặng và mua bán?
Chỉ một mũi thương nhỏ nhoi, đột nhiên trở nên nặng tựa ngàn cân. Trong vụ giao dịch này, thứ bán đi chỉ là sắt hay là… đất nước?
“Tiểu thư, tiểu thư bảo em lưu ý tên Mê Điệp đó, hôm nay hắn lại tặng thuốc nữa”. Trong phòng ngủ, Hoài Cẩn cầm một trang danh sách quà tặng mới đến bên Khương Trầm Ngư.
Khương Trầm Ngư cầm lấy tờ danh sách.
Hôm qua, khi nàng nhìn thấy một người tên “Mê Điệp” trong danh sách liền cảm thấy có gì đó bất thường, nên bảo Hoài Cẩn phàm có người nào đến tặng lễ thì cứ thu nhận, quả nhiên không ngoài dự đoán, hôm nay người đó lại tặng thuốc. Cứ như thế, đối phương liên tục tặng hai mươi chín loại thuốc trong vòng ba ngày.
Hai mươi chín… nghĩ đi nghĩ lại, thứ duy nhất có liên hệ đến con số này chỉ có ngày sinh của Trình vương – hai mươi chín tháng sáu.
Khương Trầm Ngư đặt mấy tờ danh sách cạnh nhau để đối chiếu hai mươi chín loại thuốc đó không phải là loại thuốc quý báu gì, phần lớn là thuốc thanh nhiệt tiêu viêm, bổ gân cốt, nhưng nếu như bỏ đuôi bỏ đầu một số trong đó, thì sẽ biến thành: Cúc (cứ) Oa, nhất điểm (điểm) hồng, trạch tả (tiết), lộc (lộ) giác sương, đâu linh (lân), tố (tố) hinh hoa, tỏa (sở) dương, ngũ vị (vi) tử, kim (cẩn) kiều mạch, phòng (phòng) phong, nhẫn đông (đông), hậu (hầu) bổ, thác bàn (phán) cân, ngư (ngư) tinh thảo, thục (tốc) địa, đương quy (quy) (6).
“Cứ điểm tiết lộ, Lân Tố sở vi. Cẩn phòng Đông hầu, phán Ngư tốc quy”.
(Cứ điểm bị bại lộ, là do Lân Tố làm. Cẩn thận đề phòng Đông Bích hầu, mong Trầm Ngư mau quay về.)
Tay Khương Trầm Ngư khẽ run rẩy, một tờ giấy trong số đó rơi khỏi tay, liệng vòng rớt xuống mặt đất. Ánh mắt nàng dừng lại trên trang giấy dưới chân, mãi không thốt nên lời.
Nếu như nói, việc bọn mai phục trong cửa hiệu Sái gia là thủ hạ của Lân Tố đã đủ khiến người ta kinh ngạc, vậy thì câu thứ hai càng khiến nàng lạnh buốt đến tận tâm can.
Phụ thân bảo nàng… đề phòng Giang Vãn Y.
Giang Vãn Y.
Chính là người mỉm cười nói với nàng đừng sợ hãi khi nàng chìm trong cơn ác mộng, chính người trên danh nghĩa là sư huynh của nàng, chính là người mà nàng hao phí tâm sức tìm cách cứu…
Tại sao lại là hắn?
Nàng nhặt tờ danh sách lên, đọc đi đọc lại mấy lần, những mong tìm ra ý tứ thứ hai để bác bỏ kết quả này, thế nhưng, bút tích trước mắt vô cùng rõ ràng mà tàn nhẫn nhắc nhở nàng, những việc đã phát sinh trong mấy ngày nay: Ngày mùng một tháng sáu, Tây cung, Giang Vãn Y bị phát hiện đêm khuya xuất hiện trong tẩm cung của La quý phi;
Ngày mùng hai tháng sáu, khi Di Phi thẩm tra Giang Vãn Y và La phi, Lân Tố bất ngờ xuất hiện;
Ngày mùng ba tháng sáu, Di Phi nói với nàng đêm đó Giang Vãn Y gặp một người khác ở Tây cung, mà cùng ngày, nàng phát hiện cứ điểm của phụ thân bị tiêu diệt.
Bây giờ, ngày mùng bảy tháng sáu, phụ thân sai người báo cho nàng, phải đề phòng Giang Vãn Y…
Tại sao? Tại sao?
Lẽ nào người Giang Vãn Y gặp đêm đó là Lân Tố? Hắn đã tiết lộ thân phận của nàng cho Lân Tố? Vì thế Lân Tố bắt đầu triệt để điều tra kinh đô, tróc nã những quân cờ ngầm của Khương gia, lại đặt cạm bẫy đợi nàng chui đầu vào rọ? Thế nhưng chẳng phải nàng và Giang Vãn Y chung thuyền sao? Bán đứng nàng có lợi gì cho Giang Vãn Y? Tại sao phụ thân không nói rõ một chút? Tại sao trước mắt trùng trùng mây mù, không những không rõ ràng, ngược lại càng lúc càng mơ hồ?
Khương Trầm Ngư bắt đầu hồi tưởng hết thảy sự việc liên quan đến vị sư huynh trên danh nghĩa này: Hắn là con trai độc nhất của Giang Hoài, ba năm trước vì tranh chấp với phụ thân, bỏ nhà ra đi, lưu lạc nhân gian, trong ba năm, cứu người vô số, được dân chúng phong làm thần y. Sau đó, hắn đột nhiên quay về, trở thành môn khách của công tử, việc đầu tiên sau khi về kinh thành là trị bệnh cho Hy Hòa phu nhân. Hắn có y thuật tinh thâm, chữa đâu khỏi đó, vì thế Hy Hòa phu nhân mau chóng lành bệnh, Chiêu Doãn vô cùng vui mừng, lại tra ra Giang gia và Diệp gia là thân thích, cho nên để Hy Hòa phu nhân và hắn nhận tổ quy tông, phong thưởng tước hầu, lại phái đi sứ Trình quốc, chữa bệnh cho Trình vương.
Không sai, đó chính là lai lịch của Giang Vãn Y.
Là sư muội đồng hành, có quan hệ mật thiết với hắn, nàng còn thấy được nhiều hơn: Hắn tính tình ôn hòa, cực kỳ quan tâm người dưới, không hề kiêu ngạo.
Hắn cẩn thận chu đáo, luôn toàn tâm toàn lực quên ăn quên ngủ chữa bệnh cho người khác.
Hắn còn có một trái tim vô cùng dịu dàng, vô cùng từ bi, ôm hoài bão tế thế cứu người, không phân sang hèn, coi mọi người bệnh như nhau…
Một người như thế, một người như thế… nếu tất cả đều là giả tạo…
Thật là đáng sợ.
Khương Trầm Ngư nắm chặt hai tay, muốn kiềm chế bản thân giữ bình tĩnh, nhưng ngón tay nàng run mãi run mãi, không sao dừng lại được.
Bình tĩnh, bình tĩnh, đừng hoảng loạn, từ từ nghĩ, chắc chắn, chắc chắn có thứ gì bị bỏ qua hoặc quên mất, bình tĩnh nào, nghĩ kỹ xem, có thể làm được, nhất định có thể…
Nàng nhắm mắt, hít thở thật sâu, hít vào thở ra mười lần mới mở mắt. Hoài Cẩn lo lắng nhìn nàng, “Tiểu thư, tiểu thư không sao chứ?”.
Ánh mắt Khương Trầm Ngư đậu trên tay Hoài Cẩn: “Trên cổ tay ngươi buộc cái gì đó?”.
Hoài Cẩn sững ra, giơ tay lên: “Tiểu thư nói sợi dây đỏ này à? Là năm ngoái em theo phu nhân đến Định Quốc tự lễ Phật xin được đấy”.
“Có thể tháo ra cho ta xem không?”.
Hoài Cẩn lập tức cởi sợi dây đỏ đó ra, Khương Trầm Ngư cầm lấy, tỉ mỉ xem xét, mấy sợi chỉ bện xoắn, xỏ qua ba hạt châu trắng một hạt châu đỏ, bện rất tinh xảo. Đôi mắt nàng từ đậm sang nhạt, lại từ nhạt sang đậm. Cứ thế sau một thời gian dài, nàng bỗng kêu lên thất thanh, trong mắt như có một ngọn lửa bùng lên, sáng rỡ lạ thường: “Hóa ra là thế!”.
“Tiểu thư! Cái gì là thế”.
Khương Trầm Ngư đứng dậy, vì kích động nên bước mấy bước về phía trước, lẩm bẩm: “Hóa ra là thế, thật sự là như thế sao?”.
“Tiểu thư?”.
Khương Trầm Ngư nắm chặt sợi dây đỏ, hôm nay là ngày mùng bảy tháng sáu, còn hai mươi hai ngày là đến sinh nhật Trình vương. Mệnh lệnh của Chiêu Doãn là đánh cắp bí mật và cưới được công chúa. Nhưng bây giờ xem ra tình huống rõ ràng trở nên phức tạp hơn rất nhiều.
Khương Trầm Ngư hạ rèm mi, còn hai mươi hai ngày… Ngoài cửa có người gõ cửa.
Hoài Cẩn mở cửa ra, thấy Lý Khánh khom mình bẩm: “Ngu cô nương, có thiếp mời gửi tới”.
Hoài Cẩn tò mò hỏi: “Ấy, trong cung lại thiết yến à?”.
Lý Khánh đáp: “Đúng là mời dự yến, nhưng không phải trong cung, mà là…”.
Lão còn chưa nói hết, Khương Trầm Ngư đã quay lại mỉm cười, tiếp lời với một vẻ điềm tĩnh như đã đoán trước được, nói: “Mà là Di Thù công chúa, đúng không?”.
Hoài Cẩn nhận thiếp mời, chỗ lạc khoản, trên trang giấy màu hồng đào quả nhiên viết hai chữ “Di Thù”.
Di Thù mời hai người là nàng và Phan Phương.
Vì được Trình vương bội phần sủng ái, cho nên vị công chúa này cũng có phủ đệ riêng như mấy vị ca ca, chỉ có điều, khi xe ngựa dừng lại ở cuối con ngõ nhỏ, phu xe nói trước mặt là phủ công chúa, Khương Trầm Ngư vẫn hơi ngạc nhiên một chút.
Một con ngõ rất bình thường, ngoài sạch sẽ và yên tĩnh hơn những con ngõ bình thường khác thì không có điểm nào đặc biệt cả.
Hai cánh cửa phủ sơn son, mép cửa còn bong sơn, vòng đồng sáng loáng.
Một lão già lưng gù dáng dấp như quản gia đang đứng trước bậc thềm khom lưng chờ đợi, thấy họ tới cũng không nhiều lời, hành lễ xong liền quay lưng lại dẫn đường.
Bước qua cánh cửa là một bức tường vẽ tranh màu, không phải là long phượng hoa cỏ thường thấy mà là hình Nữ Oa và Phục Hy đầu người thân rắn.
Qua thềm chắn gió, lọt vào tầm mắt là một khu vườn rộng rãi, sáng sủa, mấy gian nhà tre thấp thoáng giữa rừng sâu hồ biếc, hoa dại không biết tên nở đầy trước cửa, khiến người ta như lạc vào chốn nông gia, phong vị đồng quê dạt dào.
Tuy đều là những kiến trúc độc đáo, nhưng Di Thù và Di Phi không giống nhau, Di Phi ở một phủ đệ không làm người khác kinh ngạc không chịu thôi, còn Di Thù rõ ràng kín đáo, giản dị hơn nhiều.
Lão quản gia không dẫn họ vào trong nhà mà đi đến rừng trúc sau nhà, từ xa đã nghe thấy tiếng giao đấu và tiếng cổ cầm. Sau khi đi vòng qua căn nhà liền thấy trên khoảng đất trống ở hậu viện có bày mấy chiếc bàn ghế, một thiếu nữ ăn vận như tì nữ đang gảy đàn, cách đó vài trượng, hai người đang tỉ võ, một người dùng trường thương, một người dùng trường đao.
Không cần nói, người dùng thương chính là Di Thù, còn người dùng đao lại là Hàm Kỳ.
Hai người họ nếu nói là đang tỉ võ, chẳng thà nói là biểu diễn thì đúng hơn. Thương tới đao đi, mang theo tiết tấu tao nhã, hợp thành một thể với tiếng đàn, ánh trăng chiếu rọi lên hai người, trùm lên họ một màn ngân quang bàng bạc, phối hợp với binh khí vút lên xé gió, đánh rất đẹp mắt. Cho dù Khương Trầm Ngư không hiểu võ công, cũng cảm thấy cảnh tượng đẹp mắt, trong lòng khoan khoái. Nhất thời cao hứng, không kìm được bước đến vỗ vào vai người chơi đàn, ra dấu tay với nàng ta.
Thiếu nữ chơi đàn hiểu ý, im lặng đứng dậy nhường chỗ. Mà nàng ta vừa mới rời tay, Khương Trầm Ngư đã thay nàng ta đàn tiếp.
Dây rung, âm khởi, gió động.
Trong sân đao thương càng nhanh hơn, hồng bào áo đỏ tung bay phấp phới, phóng khoáng như nước chảy mây trôi.
Phan Phương im lặng chăm chú nhìn chiêu thức của hai người, bỗng mặt biến sắc, gần như trong cùng một giây, trường thương trong tay Di Thù bay khỏi tay, vạch một đường cong trong không trung rồi cắm phập xuống đất, thân thương không ngừng rung rung.
Khương Trầm Ngư vội dừng tay đứng dậy, nói gấp: “A Ngu nhất thời vui quá hóa vô lễ, đàn quả khích động, tội đáng muôn chết!”. Nói đoạn định quỳ xuống, nhưng bị Di Thù giơ tay ngăn lại.
Di Thù cười nói: “Là ta võ nghệ không bằng người, bị đánh rớt binh khí, may mà thương bay về phía bên kia, không làm các ngươi bị thương”.
Khương Trầm Ngư áy náy nhìn Hàm Kỳ, thấy hắn im lặng ngẩn nhìn trường đao trong tay, sau đó ngẩng đầu nhìn nàng.
Những tin đồn tai tiếng nhỏ nhen có thù tất báo liên quan đến người này bỗng dội lên trong đầu, sắc mặt Khương Trầm Ngư trở nên hơi nhợt nhạt, nhưng không ngờ Hàm Kỳ không hề giận dữ, chỉ lạnh nhạt nói: “Ngươi đàn khá lắm”.
Di Thù xùy một tiếng, nhếch môi hỏi: “Nhị hoàng huynh bắt đầu hiểu những chuyện phong hoa tuyết nguyệt này từ lúc nào vậy? Ngu cô nương đàn thế nào, huynh có nghe ra không?”.
Hàm Kỳ không thèm đếm xỉa đến lời châm chọc của nàng ta, dán mắt nhìn Trầm Ngư, hỏi: “Ngươi khỏi bệnh chưa?”.
Khương Trầm Ngư còn chưa kịp đáp lời, Di Thù lại cười ha ha: “Nhị hoàng huynh quan tâm người ta, luôn lo lắng cho bệnh của người ta”.
Khương Trầm Ngư nghe ra trong lời như có ẩn ý, có một cảm giác rất vi diệu, không kìm được khẽ chau mày. May mà Di Thù không lằng nhằng ở chủ đề này lâu, nói: “Thực ra vừa nãy ta và nhị hoàng huynh chỉ khởi động, chờ hai vị tới”.
Khương Trầm Ngư tỏ vẻ không hiểu.
Di Thù nói: “Nhị hoàng huynh nghe kể chuyện ta tỉ võ với Phan tướng quân xong, trong lòng ngứa ngáy không thôi, cũng muốn tỉ thí với tướng quân một phen”. Nói đoạn cười tươi roi rói.
Khương Trầm Ngư không khỏi nhớ tới Tần nương.
Trong ký ức của nàng, Tần nương chỉ có lúc kể chuyện mới tươi cười rạng rỡ, thần thái vui tươi, mà sau khi tiếng phách vang lên, câu chuyện kết thúc, vẻ mặt nàng lập tức ủ dột. Cho dù là đối diện với lời cầu thân của Phan Phương, giọng nói cũng vẫn nặng nề, không động thanh sắc.
Còn Di Thù lại khác. Di Thù hay cười hay nói, vẻ mặt không có một giây nào tĩnh lặng, mày liễu giương lên, khóe môi khép mở, trăm ngàn tư thế, hết mực phong tình.
Thực ra họ rất khác nhau.
Khi đã hiểu rõ điểm này, trong lòng Trầm Ngư khe khẽ thở dài, quay sang nhìn Phan Phương, Phan Phương đang đối mặt với Hàm Kỳ, Hàm Kỳ tuy đã hết sức kìm chế, nhưng đáy mắt vẫn lộ vẻ hưng phấn khó mà giấu giếm, kích động vì sắp được tỉ võ với một đối thủ như Phan Phương. Xem ra, vị hoàng tử này quả nhiên là một người cuồng võ.
Im lặng đối mặt một lúc, Hàm Kỳ giơ một tay lên, tr
/27
|