NGÀY HÔM SAU, một lần nữa tôi lại thấy mình ngồi giữa sự bao bọc của gia đình - Margs, Natalie và quả bom sex, trước đây được biết đến là mẹ tôi, đi sắm váy cưới ở tiệm đồ cưới Birdie.
À, mẹ và Natalie thì đi mua váy, Margaret và tôi thì đang uống margarita dâu tây trong bình cách nhiệt mà Margs đã hết sức chu đáo mang theo khi chúng tôi ngồi trong phòng thử đồ, đợi Natalie xuất hiện trong một bộ váy khác. Thực ra, phòng thay đồ là một cách gọi sai tên. Phải gọi là hội trường thay đồ mới phải, bởi vì tiệm Birdie trang bị nhiều ghế dài, một chiếc ghế tựa, bán cà phê và một khoảng rộng lớn được che rèm dành cho cô dâu để thử váy trước khi bước ra và làm ngây ngất đoàn tùy tùng.
“Tự em chuốc lấy vụ này đấy,” Margaret lẩm bẩm, uống một ngụm thẳng từ bình thủy.
“Ừ, đúng thế,” tôi đồng tình. Mẹ và Nat đang ở sau tấm rèm, mẹ nhặng xị. “Xếp nếp ở đây một tí, dịch tay ra con yêu, đấy…”
Hôm nay mẹ có vẻ rất bình thường. Tôi tự hỏi không biết mẹ có đang nghĩ về việc suýt nữa đã làm thịt bố ở Jitterbug đêm qua không. Í ẹ. Hoặc có khi mẹ đang nhớ tới cái ngày mẹ cùng tôi đi mua váy cưới. Margaret đi lấy lời khai, Nat vẫn còn ở Stanford nên chỉ có mẹ và tôi, và chúng tôi đã có một khoảng thời gian thật vui vẻ. Đúng là tôi đã mua chiếc váy đầu tiên mặc thử… thẳng thắn mà nói thì không hẳn là kiểu cô dâu công chúa, và bộ váy trắng này trông cũng đèm đẹp như bộ khác. (Tôi đã khá hy vọng sẽ tìm được một bộ vá phồng, kiểu như bộ mà Mitchell tả Scarlett mặc trong chương hai của Cuốn theo chiều gió, nhưng cái nhìn hoài nghi của mẹ đã thổi bay ý định đó.) Tôi hầu như không nhớ bộ váy cưới của mình trông như thế nào, trừ việc nó màu trắng và đơn giản, Tôi sẽ phải bán nó trên eBay thôi. Váy cưới: Chưa bao giờ mặc.
“Ôiii, cái đó cũng đep nữa!” Tôi xuýt xoa khi Nat xuất hiện từ phía sau bức rèm. Con bé trông đúng như một cô dâu… mặt đỏ ửng, cười rạng rỡ, mắt long lanh, e lệ ngọt ngào.
“Cái đầu tiên đẹp hơn,” Margaret nói. “Chị không thích mấy cái diêm dúa quanh viền áo.”
“Diêm dúa, loại,” tôi hùa theo, nhấp thêm một ngụm.
“Em không biết nữa,” Natalie lẩm bẩm, chăm chú ngắm nghía mình. “Em thích kiểu diêm dúa.”
“Diêm dúa kiểu đấy đẹp,” tôi vội vàng chỉnh sửa.
“Trông con đẹp lắm,” mẹ đĩnh đạc tuyên bố. Con có thể mặc cả túi rác lên cũng vẫn xinh đẹp.”
“Phải, công chúa Natalie,” Margaret đảo mắt. “Em có thể khoác cả da cóc lên người và vẫn xinh đẹp.”
“Em đang nghĩ đến vải gai và tro rắc đầu(1),” tôi chêm. Vào, nhận được một tiếng khịt mũi hưởng ứng của chị gái.
(1) Kiểu trang phục khi sám hối
Nat cười toe toét, nhưng mắt con bé nhìn xa xăm. “Em không quan tâm mình mặc gì. Em chỉ muốn được kết hôn thôi,” nó lẩm nhẩm.
“Khiếp quá,” Margaret nói. Tôi nhăn răng cười.
“Tất nhiên là con nghĩ vậy rồi,” mẹ vỗ vai con bé. “Mẹ cũng đã cảm thấy như vậy. Margaret cũng thế.”
“Con có ạ?” Margaret sửng sốt.
Mẹ, nhận ra quá muộn rằng có lẽ còn có những cảm xúc khác cần được để tâm đến, liếc nhìn tôi mỉm cười lo lắng. Tôi cười đáp lại. Đã từng có lúc, phải, tôi cũng cảm thấy như thế về hôn nhân. Đã từng có thời, làm đám cưới với Andrew cũng là tất cả những gì tôi muốn. Những đêm xem phim và chơi trò sắp chữ, những kỳ nghĩ cuối tuần đi khảo cổ hay trên bãi chiến trường, nhàn nhã yêu nhau trên chiếc giường rải rác những tạp chí New York Times. Xa hơn là hai đứa trẻ. Những kỳ hè dài đi nghỉ ở Cape Cod hay lái xe dọc đất nước. Abcxyz, vân vân và vân vân…
Và giờ ngồi đây, ngưỡng mộ em gái mình, cuối cùng tôi cũng thấy được rằng, ngay cả trước khi Andrew gặp được ánh sáng của anh, thì tất cả những hình ảnh tưởng tượng ấy đều dường như hơi… mỏng manh. Tôi đã hình dung ra cái tương lai đó ở mức độ tin tưởng mà đáng lẽ đã có thể cho tôi đôi chút đầu mối về bản chất vấn đề. Nó quá tuyệt vời để có thể trở thành sự thật.
“Qua đêm ở thành phố thế nào, chị Grace?” Natalie hỏi, tỉnh khỏi cơn đê mê.
Tôi liếc Margaret, chị đã được tôi phím trước. “À, chị rất tiếc phải nói là Wyatt và chị đang…” tôi dừng lại để tạo hiệu ứng tiếc nuối “…tạm thời xa nhau.”
“Cái gì?” Natalie và mẹ cùng kêu lên.
Tôi thở dài. “Em thấy đấy, anh ấy đúng là rất tuyệt, nhưng thực sự thì, công việc của anh ấy đòi hỏi quá nhiều. Ý chị là, mọi người thậm chí còn chưa bao giờ gặp được anh ấy, đúng không? Điều đó thể hiện anh ấy sẽ là một người chồng thế nào?”
“Dở hơi thế,” Margaret nói to, “Vả lại, chị chưa bao giờ nghĩ rằng anh ta lại như thế.”
“Trật tự, Margaret,” mẹ nói, lại gần và ngồi xuống cạnh tôi, ban phát mấy cái vỗ về của đấng sinh thành.
“Ôi, Grace,” Natalie cắn môi nói. “Anh ấy có vẻ thật tuyệt vời. Em… em đã nghĩ chị yêu say mê lắm. Ít lâu trước chị còn nói cả về chuyện kết hôn nữa!”
Margaret sặc. “À,” tôi nói, “chị chỉ không muốn có một người chồng mà không thể thực sự, ừm, tận tụy với lũ trẻ và chị. Em biết đấy. Lúc nào cũng chạy đôn chạy đáo tới bệnh viện và già đi thêm chút vì lo lắng.”
“Nhưng anh ấy đang cứu mạng bọn trẻ, Grace!” Natalie phản đối.
“Ừm,” tôi tợp một ngụm margarita. “Đúng là như thế. Điều đó khiến anh ấy là một bác sĩ tuyệt vời, nhưng không nhất thiết là một người chồng tốt.”
“Có thể con đúng. Hôn nhân cũng đã đủ khó khăn rồi,” mẹ nói. Tôi ép mình không được hình dung ra đêm qua nữa, nhưng tất nhiên, nó cứ chình ình trước mắt, mẹ và bố… khiếp!
“Em tiếp nhận chuyện ấy thế nào, Grace?” Margaret hỏi, như đã được tập từ lúc lên xe tới đây.
“Chị biết đấy, thực ra em thấy không vấn đề gì với chuyện đó,” tôi trả lời bình thản.
“Chị không tan nát cõi lòng ư?” Natalie hỏi, quỳ xuống trước mặt tôi, trong bộ váy trắng, con bé cứ như bước ra từ ảo mộng.
“Không. Không một chút nào. Như thế là tốt nhất. Và chị nghĩ bọn chị sẽ vẫn là bạn,” tôi nói, xơi một cái cùi chỏ của Margaret vào mạng sườn. “Không không. Anh ấy có thể sẽ thuyên chuyển tới Chicago. Nên chúng ta cứ để xem thế nào vậy. Mẹ, hoạt động nghệ thuật của mẹ đến đâu rồi ạ?” Một đề tài đảm bảo sẽ chuyển được trung tâm chú ý ra khỏi đời sống tình cảm của tôi.
“Đang trì trệ một chút,” mẹ nói. “Mẹ đang nghĩ đến việc chuyển sang đàn ông. Mẹ quá mệt mỏi với những âm vật và buồng trứng rồi. Có lẽ đã đến lúc cho đề tài dương vật quen thuộc cũ rích rồi.”
“Sao không phải là hoa hả mẹ? Hoặc thỏ hay bươm bướm? Sao cứ phải là bộ phận sinh dục thế ạ?” Margs hỏi.
“Tình hình các vị thế nào rồi ạ?” Birdie, chủ của tiệm đồ cưới Birdie hối hả bước vào, cầm trên tay một bộ váy khác. “Ôi, Natalie yêu dấu, trông cô thật mê hồn! Cứ như quảng cáo trong tạp chí vậy! Như một ngôi sao điện ảnh! Một nàng công chúa!”
“Đừng quên nữ thần Hy Lạp,” Margaret thêm vào.
“Aphrodite, hiện lên từ những ngọn sóng,” Birdie đồng tình.
“Đó có thể là thần Venus,” tôi nói.
“Ồ, Faith, váy của cô đây,” Birdie nói, đưa cho tôi một bộ váy màu hoa hồng, dài chấm đất.
“Là Grace. Tên tôi là Grace.”
“Mặc thử đi, mặc thử đi!” Nat vỗ tay. “Chị mặc màu đỏ trông sẽ rất rực rỡ, Grace!”
“Phải, phù dâu chính. Em trở nên cực kỳ đặc biệt,” Margaret gầm gừ.
“Ôi, bỏ qua chuyện đó đi,” tôi nói, đứng lên khỏi chiếc ghế dài. “Mặc thử váy của chị đi, Margaret, và cư xử cho ngoan ngoãn.”
“Của chị ở ngay đây,” Natalie nói khiến cho Margaret choáng váng. Birdie đưa cho Margs một bộ váy với mấy đường pha màu nhạt hơn của tôi, rồi Margs và tôi vào hai phòng thay đồ khác nhau để thử váy áo.
Tôi bước ra sau tấm rèm. Tôi treo váy lên móc, cởi bỏ quần jean và áo phông, may mà bộ quần áo lót mới vớt vát lại để trông tôi không giống như một cô nàng nhếch nhác. Tôi kéo chiếc váy qua đầu, gỡ tóc ra khỏi khóa kéo và xoay xở để cứ bầu ngực bên trái khỏi bị kẹt. Đấy. Giắt ở đây một cái, đẩy ở kia một tí, và tôi đã kéo xong khóa.
“Được rồi, cùng xem nào!” Natalie kêu lên sốt ruột.
“Ten tèn!” Tôi vui vẻ, bước nhập hội cùng chị em của mình.
“Ôi! Quá rực rỡ! Đây đúng là màu dành cho chị!” Natalie hét lên, vỗ tay ầm ĩ. Con bé đã mặc một bộ váy khác, một tác phẩm lụa trắng lung linh với viền cổ kín đáo, thân áo trên gọn gàng lấp lánh hạt cườm với phần váy bồng bềnh, đồ sộ. Margaret, làm gì cũng nhanh nhẹn hiệu quả, đã chờ sẵn, trông lãnh đạm và vô cùng xinh đẹp trong bộ váy hồng nhạt của mình.
“Lại đây nào, Grace,” mẹ nói. “Đứng cùng với các chị em xem các con trông thế nào nào.”
Tôi vâng lời. Đứng lên mấy cái bục nhỏ bên cạnh bông hồng Natalie thanh nhã, tóc vàng óng, sành điệu. Phía bên kia Natalie là Margaret, mái tóc vàng hung đỏ của chị được khéo léo cắt theo kiểu qua vai hợp thời, hấp dẫn sắc sảo, mảnh mai như một con chó săn, gò má chết người. Chị em của tôi, nói đơn giản, rất xinh đẹp. Thậm chí, sững sờ.
Và rồi sau đó là tôi. Tôi nhận ra rằng mái tóc sẫm của mình chịu đựng thời tiết hôm nay không được tốt và nó lại đang làm cái trò hoang dại mọi khi. Mấy quầng thâm trú dưới mắt tôi. (Ai mà ngủ được sau màn trình diễn của mẹ và bố chứ?) Mấy tháng qua, loanh quanh thế nào mà tôi lại “đắp” thêm tí thịt vào bắp tay, nhờ sự ưu ái của quãng thời gian suốt ngày ôm mấy hộp kem Ben & Jerry. Căn cứ vào một bức ảnh còn lưu giữ được, trông tôi giống như bà cố đằng mẹ tôi, cụ nhập cư từ Kiev.
“Chị trông giống như bà cố Zladova,” tôi bình luận.
Mẹ bật ngửa đầu ra. “Mẹ vẫn luôn thắc mắc không biết con thửa hưởng bộ tóc đó ở đâu.”
“Không phải thế đâu,” Natalie nói chắc nịch.
“Chẳng phải bà là thợ giặt à?” Margaret hỏi.
Tôi đảo mắt. “Tuyệt thật. Nat là Lọ Lem, Margaret là Nicole Kidman, còn mình là bà cố Zladova, thợ giặt của Nga hoàng.”
Mười phút sau, Birdie đã bán xong hàng, mẹ đang tíu tít với mấy phụ kiện cài đầu, Margaret kiểm tra chiếc điện thoại BlackBerry, còn tôi thì cần một chút không khí. “Chị sẽ gặp em ở ngoài nhé, Nat,” tôi nói.
“Chị Grace?” Nat đặt tay lên tay tôi. “Em rất tiếc về chuyện của Wyatt.”
“Ồ,” tôi nói. “Cám ơn em.”
“Chị sẽ tìm được ai đó,” con bé nói khẽ. “Người phù hợp rồi sẽ xuất hiện. Rồi sẽ sớm đến lượt chị.”
Những lời đó nghe như một cái tát. Không, hơn cả mấy lời đó là… khỉ thật, mắt tôi cay cay… là sự thương hại. Trong suốt thời gian tôi và Andrew chia tay, Natalie đã cảm thông, áy náy và rất nhiều những cảm xúc khác, không nghi ngờ gì, nhưng con bé chưa bao giờ thương hại tôi. Không. Em gái tôi vẫn luôn, luôn luôn ngưỡng mộ tôi, ngay cả khi tôi đang gặp khó khăn. Trước đây, chưa bao giờ con bé nhìn tôi bằng ánh mắt như lúc này. Tôi lại là Grace Tội Nghiệp một lần nữa.
“Có thể chị sẽ gặp được ai đó,” tôi chua chat nói. “Nhưng mà này. Em và Andrew có thể dùng chị làm người trông trẻ mà, phải không?”
Con bé tái mặt. “Grace… em không có ý đó.”
“Tất nhiên rồi,” tôi nói nhanh. “Chị biết. Nhưng em biết đấy, Nat, cô đơn đối với chị không phải là điều tệ nhất trên đời. Có phải là chị mất chân mất tay gì đâu.”
“Ôi, không! Tất nhiên là không rồi. Em biết.” Con bé mỉm cười hoang mang.
Tôi hít một hơi thật sâu. “Chị… chị sẽ ở bên ngoài,” tôi nói.
“Được rồi,” con bé ríu rít. “Gặp chị ngoài xe nhé,” nói rồi, nó quay lại với mẹ và bộ váy cưới của mình.
ĐI MUA VÁY VỀ, tôi mệt lử vì những nỗ lực vui vẻ chết tiệt. Theo sau vụ mua váy là bữa tối và đồ uống, đầy những lời chúc tụng tốt đẹp và những câu chuyện về đám cưới. Nhập hội cùng chúng tôi còn có thêm vài người họ hàng nữa - mấy chị em của mẹ và than ôi, chị họ Kitty, Nữ hoàng Mới Cưới, chị tuôn hàng tràng về sự tuyệt vời của hôn nhân. Ở lần thứ ba, những lần số một và số hai không được tốt đẹp lắm, nhưng đó đã là quá khứ, hẳn nhiên rồi, và bây giờ thì Kitty là chuyên gia về Hạnh Phúc Mãi Mãi Về Sau.
Chỉ vài tuần nữa, Andrew và Natalie sẽ thành vợ thành chồng. Tôi không thể chờ được. Thật sự, tôi chỉ mong nó xong đi cho rồi. Như thế, cuối cùng, một chương mới của đời tôi sẽ có thể được bắt đầu.
Angus cào vào cửa bếp đòi ra ngoài. Trời đang mưa, sấm rền xa xa phía đằng Đông. Angus không nằm trong số những con chó sợ bão - nó có trái tim sư tử, ánh chàng bé nhỏ của tôi - nhưng nó không thích bị mưa. “Quay lại sớm nhé,” tôi nói.
Đúng lúc mở cửa, tôi nhìn thấy một cái bóng đen in lên hàng rào phía cuối phần đất của mình. Chớp lóe lên. Một con chồn… chết tiệt! Tôi lao theo con chó. “Không được, Angus! Lại đây ngay!”
Nhưng đã quá trễ. Con chó của tôi, vệt mờ bạo tàn màu trắng, đã xẹt ngang qua sàn. Một ánh chớp khác lóe lên, tôi nhìn thấy đó là một con chồn hương. Nó nhìn lên cảnh giác, rồi biến mất dưới chân hàng rào, trong cái lỗ rất có thể do Angus đào. Một con chồn hương có thể gây thương tích đáng kể cho chú chó nhỏ của tôi, mà nó thì lại không đủ thông minh để hiểu. “Angus! Lại đây! Lại đây nào!”. Không tác dụng gì. Angus hiếm khi nghe lời khi đang đuổi theo một con vật khác, và cứ như thế, nó cũng biến mất theo, dưới hàng rào, đuổi theo con chồn hương.
“Khỉ thật!”, tôi nguyền rủa. Quay trở lại, tôi chạy vào nhà, vớ lấy cái đèn pin rồi chạy trở ra ngoài, vào sân nhà Callahan để khỏi phải trèo qua hàng rào sau nhà mình.
“Grace? Mọi chuyện ổn chứ?” Đèn hiên sau bật mở. Anh đã về.
“Angus đang đuổi theo một con chồn hương,” tôi thốt lên, chạy qua thềm mà không dừng lại, lao qua sân nhà Cal vào rừng, hơi thở của tôi bắt đầu đứt quãng. Hình ảnh con chó nhỏ đáng yêu bị móc mắt, với vết cào trên lưng, máu ướt đẫm toàn bộ lông trắng… Chồn hương rất dữ, và con này hoàn toàn có thể xé xác con chó nhỏ của tôi. Trông nó to hơn Angus nhiều.
“Angus!” tôi gọi, giọng vống lên vì sợ. “Bánh này! Angus! Bánh này!”
Đèn pin trong tay tôi rọi vào làn mưa và những nhành cây ướt đẫm của khu rừng quốc gia. Khi tôi nhao về phía trước, mấy cành cây con quất vào mặt, một nỗi sợ mới cuộn lên trong dạ dày. Con sông. Dòng Farmington cách đây một trăm thước, sau những cơn mưa mùa xuân cùng với tuyết tan đã đầy tràn và tối tăm. Dòng chảy xiết thừa sức cuốn trôi một con chó nhỏ không được thông minh lắm.
Một ánh sáng khác lóe lên cạnh tôi. Callahan, mặc áo mưa và mũ Yankee, đã bắt kịp.
“Nó đi đường nào?” anh hỏi.
“Ôi, Callahan, cám ơn,” tôi thở hổn hển. “Tôi không biết. Nó chui xuống hàng rào. Nó đào hầm. Tôi vẫn thương lấp chúng đi, nhưng lần này… tôi… tôi…” Tôi òa lên nức nở.
“Thôi nào, cố lên. Chúng ta sẽ tìm được nó. Đừng lo, Grace.” Callahan choàng ta qua vai tôi, siết nhẹ, rồi hướng đèn của mình đầu, vào mấy tán cây.
“Tôi không nghĩ nó biết trèo đâu, Cal,” tôi nói trong làn nước, mưa và nước mắt hòa vào nhau trên khuôn mặt tôi khi tôi ngẩng lên.
Cal mỉm cười. “Nhưng chồn hương thì trèo được. Có khi Angus lừa nó chạy lên cây. Nếu chúng ta tìm được con chồn, có lẽ sẽ tìm được con cún của cô.”
Ý kiến hay, nhưng sau năm phút rọi đèn vào các cành cây, chúng tôi chẳng tìm được chồn lẫn chó. Không có dấu hiệu nào của nó cả, tất nhiên nói thế không ó nghĩa tôi là một người theo dấu sành sỏi hay gì cả. Giờ đây chúng toi đã ở gần bờ sông hơn. Dòng sông đã từng nghe thật ngọt ngào và an ủi giờ đây nghe đầy hăm dọa và hung ác… dòng sông vô tâm cứ thế cuồn cuộn qua, cuốn theo bất cứ thứ gì.
“Mấy ngày qua anh ở đâu vậy?” tôi hỏi Callahan, chiếu đèn xuống một cành cây gãy. Không thấy Angus.
“Becky cần tôi làm tí việc ở Stanford,” anh trả lời.
“Becky là ai?”
“Cô gái tóc vàng ở quán rượu ấy. Cô ấy là bạn cũ hồi trung học. Làm việc trong ngành bất động sản. Đó là cách tôi tìm được ngôi nhà này đấy.”
“Đáng lẽ anh có thể nói cho tôi biết anh đi vắng,” tôi liếc sang anh. “Tôi đã rất lo lắng.”
Anh cười. “Lần sau tôi sẽ nói.”
Tôi gọi Angus lần nữa, huýt sáo, vỗ tay. Không thấy gì.
Rồi tôi nghe một tiếng sủa gay gắt phía xa, tiếp theo là tiếng kêu ăng ẳng, cái tiếng kêu đau đớn ghê sợ ấy. “Angus! Angus, mày ở đâu?” tôi gọi, bước về phía trước theo hướng tiếng kêu. Nó vọng xuống từ phía thượng nguồn. Dưới sông? Tôi không thể nói được.
Rất khó để nghe được gì qua tiếng ồn của cơn mưa và dòng nước chảy. Hình ảnh của Angus khi tôi mới mua nó về, một quả bóng run lẩy bẩy bé xíu, một túm len tròn… đôi mắt lấp lánh nó nhìn tôi mỗi sáng, giục tôi thức dậy… cái dáng Siêu Khuyển hài hước của nó… dáng ngủ ngửa, chân chổng lên trời, hàm dưới bé xíu cong cong chìa ra của nó. Tôi khóc dữ dội hơn, “Angus!” tôi liên tục gọi, giọng gay gắt và sợ hãi.
Tôi tới bờ sông. Bình thường tôi nghĩ nó thật đẹp, dòng nước hối hả, lấp lánh, mấy phiến đá bên dưới, bọt trắng tung lên ở nơi dòng nước va vào đá hay cành cây. Đêm nay, nó hung hãn và tối như một con rắn đen. Tôi hướng ánh đèn về phía dòng nước, kinh hoàng nghĩ đến việc nhìn thấy một cái xác trắng bị cuốn đi.
“Ôi, khỉ thật,” tôi nức nở.
“Có thể là nó không nhảy xuống đâu,” Cal nắm lấy tay tôi an ủi. “Nó ngu, nhưng cũng phải có chút bản năng chứ, phải không? Nó không tự làm mình chết đuối đâu.”
“Anh không biết Angus thôi,” tôi sụt sùi. “Nó rất bướng. Khi nó đã muốn cái gì thì nó không dừng lại đâu.”
“Chà, nếu nó đuổi theo con chồn, thì con chồn cũng phải nhận thức đủ chứ.” Cal nói. “Được rồi. Tìm tiếp đi.”
Chúng tôi đi dọc con sông, qua khu rừng, ngày càng cách xa nhà, gọi tên con chó, hứa hẹn cho nó phần thưởng. Không nghe tiếng ăng ẳng nữa, chỉ có tiếng mưa đổ xuống lá cây. Tôi không đi tất, và chân tôi tê cóng bên trong đôi sục làm vườn bê bết bùn. Tất cả là lỗi của tôi. Nó đào hố suốt. Tôi biết thế. Thường thì cuối tuần tôi vẫn kiểm tra hàng rào chỉ vì lý do này. Hôm nay tôi làm. Hôm nay tôi còn phải đi mua váy với Natalie ngu ngốc.
Tôi không muốn hình dung cuộc đời mình không có nó. Angus ngủ trên giường tôi sau khi Andrew bỏ tôi mà đi. Angus cần tôi, chờ đợi tôi, cái đầu nhỏ của nó xuất hiện trên cửa sổ mỗi lần tôi về nhà, quá khích trước sự có mặt diệu kỳ của tôi. Tôi mất nó rồi. Đáng ra tôi phải lấp cái hố ngu ngốc đó, và tôi đã không làm, giờ thì nó đi mất rồi.
Tôi hít vào một hơi rệu rả, nước mắt nóng hổi không ngừng tuôn xuống khuôn mặt đẫm nước mưa của tôi.
“Nó kia rồi,” Cal rọi đèn.
Anh nói đúng. Khoảng ba mươi thước về phía Tây dòng sông, Angus đứng bên cạnh một ngôi nhà nhỏ, giống như nhà tôi, nó đang quay lưng về phía khu rừng. Con chó đang đánh hơi một thùng rác có nắp đồng và nhìn về phía giọng của tôi. Đuôi nó ngoe nguẩy, nó sủa lên một tiếng, rồi quay lại sục sạo thùng rác.
“Angus!” tôi hét, nhào lên gò đất ngăn cách giữa tôi với con chó, “Chó ngoan! Bé ngoan! Mày làm mẹ lo quá! Đúng rồi đấy, là mày đấy!” Nó vẫy đuôi tán thưởng, sủa lần nữa và rồi tôi ôm lấy nó. Ôm được con chó trong tay, tôi hôn cái đầu đẫm nước của nó túi bụi, nước mắt lã chả rơi trên lông nó trong khi nó vui vẻ uốn éo và cắn yêu tôi.
“Được rồi nhé,” Cal nói, tiến lại gần bên tôi. Anh đang cười. Tôi cố cười đáp lại, nhưng miệng tôi méo xệch đi, nên tôi không kéo được nó lên là mấy.
“Cám ơn anh,” tôi cố kiềm chế. Callahan với tay ra để vỗ về Angus, nó đột nhiên nhận ra kẻ thù của mình đang ở đó, liền qua cái đầu nhỏ ra mà tớp.
“Đồ vô ơn,” Cal nói, quắc mắt nhìn con chó. Anh cúi xuống và thu dọn rác vào trong thùng rồi đặt lại tử tế.
“Anh thật tốt quá,” tôi run run nói, ghì chặt con chó vào lòng.
“Đừng nói với giọng ngạc nhiên như thế,” Cal đáp.
Chúng tôi theo lối vào của ngôi nhà để đi xuống phố. Tôi nhận ra khu này rồi - nó cách phố Maple khoảng nửa dặm, có vẻ sang trọng hơn nơi tôi và Cal ở một chút. Mưa nhẹ bớt, và Angus rúc vào vai tôi, làm động tác như em bé, mà áp vào cổ tôi, chân trước đặt trên vai tôi. Tôi kéo áo khoác quanh cơ thể bé nhỏ của nó và cám ơn những thế lực đã giữ an toàn cho con chó nhỏ đần độn của mình, cái con chó mà tôi yêu khôn xiết.
Những thế lực có mặt, và Callahan O’Shea. Anh đã đi cùng tôi trong đêm mưa gió lạnh lẽo này, và không rời khỏi tôi cho đến khi chúng tôi tìm được con chó. Không hề nói một câu nào khó chịu kiểu như, “Ôi, nó sẽ về thôi.” Không. Callahan ở sát bên tôi, trấn an tôi, vỗ về tôi. Nhặt rác vào cho tôi. Tôi muốn nói gì đó, dù không chắc lắm là điều gì, nhưng tôi liếc sang người láng giềng khỏe mạnh, rắn chắc của mình, mặt tôi lại nóng bừng lên đủ để cấp điện cho cả một thành phố nhỏ.
Chúng tôi rẽ vào phố Mapple và ánh sáng từ nhà tôi hắt ra. Tôi nhìn xuống, Cal và tôi đều ngập trong bùn từ chân tới đầu gối, và ướt vào tận da. Angus trông giống một con chuột chũi hơn là một con chó, lòng nó ướt nhẹp và rối tung.
Cal nhận ra cái nhìn của tôi. “Sao cô không qua nhà tôi?” anh gợi ý. “Chúng ta có thể rửa chân tay ở đó. Nhà cô thì như một cái bảo tàng rồi, phải không?”
“À, không hẳn là bảo tàng,” tôi nói. “Chỉ là nó đang chứa kha khá đồ thôi.”
“Kha khá, chắc rồi. Chà, muốn ghé qua không? Không hề gì nếu làm bẩn bếp nhà tôi. Tôi vẫn đang xử lý nó mà.”
“Được thôi. Cám ơn,” tôi nói. Tôi vẫn hay thắc mắc về ngôi nhà này, bên trong nó ra sao, Callahan đang làm gì ở đó. “Mà việc sửa chữa đến đâu rồi? Anh sẽ bán lại ngôi nhà đúng không?”
“Ổn cả. Vào đi. Tôi sẽ đưa cô đi xem một vòng,” anh mời, như đọc được suy nghĩ của tôi.
CAL ĐỂ TÔI VÀO từ cửa sau.
“Tôi sẽ lấy mấy cái khăn tắm,” anh vừa nói vừa tháo đôi ủng lao động và biến mất vào một căn phòng khác. Angus, vẫn nằm trên vai tôi, ngáy khe khẽ, khiến tôi mỉm cười. Tôi bỏ đôi sục làm vườn ra, gạt tóc khỏi mặt và nhìn quanh.
Căn bếp của Callahan đã gần xong. Một chiếc bàn chân rời với ba chiếc ghế không đồng bộ nhìn ra một khung cửa sổ nhô ra phía ngoài mới làm. Tủ bếp làm bằng gỗ thích với các tấm kính, và quầy bếp thì được làm từ đá phiến. Có nhiều khoảng trống cho các dụng cụ, dù đã có bếp đôi và tủ lạnh cỡ lớn. Chắc chắn tôi nên mời anh qua ăn tối, tôi nhủ thầm. Xét đến việc anh tốt với tôi như vậy. Xét đến lúc anh nắm lấy tay tôi. Xét đến chuyện tôi có tình cảm với anh và tuồng như không thể nhớ ra nổi lý do nào mà tôi lại từng nghĩ Callahan O’Shea là một lựa chọn tồi.
Cal trở lại phòng. “Đây,” anh nói, đỡ lấy con cún đang ngủ từ tay tôi và bọc nó vào một chiếc khăn tắm lớn. Anh lau khô bộ lông của con chó, khiến Angus chớp mắt ngái ngủ nhìn người lạ đang bế nó, “Không cắn nhé,” Cal cảnh cáo. Angus vẫy đuôi, Cal cười.
Rồi anh hôn lên đầu con chó.
Chỉ có thế. Không hề nhận ra mình đã di chuyển, tôi thấy tay mình không biết làm sao đã vòng qua cổ Callahan, thấy tôi đã gỡ chiếc mũ Yankee xuống, thấy ngón tay mình lùa vào mái tóc ướt của anh, thấy mình đang ép chặt vào Angus và thấy mình đang hôn Callahan O’Shea. Thôi xong.
“Cũng đến lúc rồi,” anh lẩm nhẩm khẽ bên miệng tôi. Rồi hôn đáp lại.
À, mẹ và Natalie thì đi mua váy, Margaret và tôi thì đang uống margarita dâu tây trong bình cách nhiệt mà Margs đã hết sức chu đáo mang theo khi chúng tôi ngồi trong phòng thử đồ, đợi Natalie xuất hiện trong một bộ váy khác. Thực ra, phòng thay đồ là một cách gọi sai tên. Phải gọi là hội trường thay đồ mới phải, bởi vì tiệm Birdie trang bị nhiều ghế dài, một chiếc ghế tựa, bán cà phê và một khoảng rộng lớn được che rèm dành cho cô dâu để thử váy trước khi bước ra và làm ngây ngất đoàn tùy tùng.
“Tự em chuốc lấy vụ này đấy,” Margaret lẩm bẩm, uống một ngụm thẳng từ bình thủy.
“Ừ, đúng thế,” tôi đồng tình. Mẹ và Nat đang ở sau tấm rèm, mẹ nhặng xị. “Xếp nếp ở đây một tí, dịch tay ra con yêu, đấy…”
Hôm nay mẹ có vẻ rất bình thường. Tôi tự hỏi không biết mẹ có đang nghĩ về việc suýt nữa đã làm thịt bố ở Jitterbug đêm qua không. Í ẹ. Hoặc có khi mẹ đang nhớ tới cái ngày mẹ cùng tôi đi mua váy cưới. Margaret đi lấy lời khai, Nat vẫn còn ở Stanford nên chỉ có mẹ và tôi, và chúng tôi đã có một khoảng thời gian thật vui vẻ. Đúng là tôi đã mua chiếc váy đầu tiên mặc thử… thẳng thắn mà nói thì không hẳn là kiểu cô dâu công chúa, và bộ váy trắng này trông cũng đèm đẹp như bộ khác. (Tôi đã khá hy vọng sẽ tìm được một bộ vá phồng, kiểu như bộ mà Mitchell tả Scarlett mặc trong chương hai của Cuốn theo chiều gió, nhưng cái nhìn hoài nghi của mẹ đã thổi bay ý định đó.) Tôi hầu như không nhớ bộ váy cưới của mình trông như thế nào, trừ việc nó màu trắng và đơn giản, Tôi sẽ phải bán nó trên eBay thôi. Váy cưới: Chưa bao giờ mặc.
“Ôiii, cái đó cũng đep nữa!” Tôi xuýt xoa khi Nat xuất hiện từ phía sau bức rèm. Con bé trông đúng như một cô dâu… mặt đỏ ửng, cười rạng rỡ, mắt long lanh, e lệ ngọt ngào.
“Cái đầu tiên đẹp hơn,” Margaret nói. “Chị không thích mấy cái diêm dúa quanh viền áo.”
“Diêm dúa, loại,” tôi hùa theo, nhấp thêm một ngụm.
“Em không biết nữa,” Natalie lẩm bẩm, chăm chú ngắm nghía mình. “Em thích kiểu diêm dúa.”
“Diêm dúa kiểu đấy đẹp,” tôi vội vàng chỉnh sửa.
“Trông con đẹp lắm,” mẹ đĩnh đạc tuyên bố. Con có thể mặc cả túi rác lên cũng vẫn xinh đẹp.”
“Phải, công chúa Natalie,” Margaret đảo mắt. “Em có thể khoác cả da cóc lên người và vẫn xinh đẹp.”
“Em đang nghĩ đến vải gai và tro rắc đầu(1),” tôi chêm. Vào, nhận được một tiếng khịt mũi hưởng ứng của chị gái.
(1) Kiểu trang phục khi sám hối
Nat cười toe toét, nhưng mắt con bé nhìn xa xăm. “Em không quan tâm mình mặc gì. Em chỉ muốn được kết hôn thôi,” nó lẩm nhẩm.
“Khiếp quá,” Margaret nói. Tôi nhăn răng cười.
“Tất nhiên là con nghĩ vậy rồi,” mẹ vỗ vai con bé. “Mẹ cũng đã cảm thấy như vậy. Margaret cũng thế.”
“Con có ạ?” Margaret sửng sốt.
Mẹ, nhận ra quá muộn rằng có lẽ còn có những cảm xúc khác cần được để tâm đến, liếc nhìn tôi mỉm cười lo lắng. Tôi cười đáp lại. Đã từng có lúc, phải, tôi cũng cảm thấy như thế về hôn nhân. Đã từng có thời, làm đám cưới với Andrew cũng là tất cả những gì tôi muốn. Những đêm xem phim và chơi trò sắp chữ, những kỳ nghĩ cuối tuần đi khảo cổ hay trên bãi chiến trường, nhàn nhã yêu nhau trên chiếc giường rải rác những tạp chí New York Times. Xa hơn là hai đứa trẻ. Những kỳ hè dài đi nghỉ ở Cape Cod hay lái xe dọc đất nước. Abcxyz, vân vân và vân vân…
Và giờ ngồi đây, ngưỡng mộ em gái mình, cuối cùng tôi cũng thấy được rằng, ngay cả trước khi Andrew gặp được ánh sáng của anh, thì tất cả những hình ảnh tưởng tượng ấy đều dường như hơi… mỏng manh. Tôi đã hình dung ra cái tương lai đó ở mức độ tin tưởng mà đáng lẽ đã có thể cho tôi đôi chút đầu mối về bản chất vấn đề. Nó quá tuyệt vời để có thể trở thành sự thật.
“Qua đêm ở thành phố thế nào, chị Grace?” Natalie hỏi, tỉnh khỏi cơn đê mê.
Tôi liếc Margaret, chị đã được tôi phím trước. “À, chị rất tiếc phải nói là Wyatt và chị đang…” tôi dừng lại để tạo hiệu ứng tiếc nuối “…tạm thời xa nhau.”
“Cái gì?” Natalie và mẹ cùng kêu lên.
Tôi thở dài. “Em thấy đấy, anh ấy đúng là rất tuyệt, nhưng thực sự thì, công việc của anh ấy đòi hỏi quá nhiều. Ý chị là, mọi người thậm chí còn chưa bao giờ gặp được anh ấy, đúng không? Điều đó thể hiện anh ấy sẽ là một người chồng thế nào?”
“Dở hơi thế,” Margaret nói to, “Vả lại, chị chưa bao giờ nghĩ rằng anh ta lại như thế.”
“Trật tự, Margaret,” mẹ nói, lại gần và ngồi xuống cạnh tôi, ban phát mấy cái vỗ về của đấng sinh thành.
“Ôi, Grace,” Natalie cắn môi nói. “Anh ấy có vẻ thật tuyệt vời. Em… em đã nghĩ chị yêu say mê lắm. Ít lâu trước chị còn nói cả về chuyện kết hôn nữa!”
Margaret sặc. “À,” tôi nói, “chị chỉ không muốn có một người chồng mà không thể thực sự, ừm, tận tụy với lũ trẻ và chị. Em biết đấy. Lúc nào cũng chạy đôn chạy đáo tới bệnh viện và già đi thêm chút vì lo lắng.”
“Nhưng anh ấy đang cứu mạng bọn trẻ, Grace!” Natalie phản đối.
“Ừm,” tôi tợp một ngụm margarita. “Đúng là như thế. Điều đó khiến anh ấy là một bác sĩ tuyệt vời, nhưng không nhất thiết là một người chồng tốt.”
“Có thể con đúng. Hôn nhân cũng đã đủ khó khăn rồi,” mẹ nói. Tôi ép mình không được hình dung ra đêm qua nữa, nhưng tất nhiên, nó cứ chình ình trước mắt, mẹ và bố… khiếp!
“Em tiếp nhận chuyện ấy thế nào, Grace?” Margaret hỏi, như đã được tập từ lúc lên xe tới đây.
“Chị biết đấy, thực ra em thấy không vấn đề gì với chuyện đó,” tôi trả lời bình thản.
“Chị không tan nát cõi lòng ư?” Natalie hỏi, quỳ xuống trước mặt tôi, trong bộ váy trắng, con bé cứ như bước ra từ ảo mộng.
“Không. Không một chút nào. Như thế là tốt nhất. Và chị nghĩ bọn chị sẽ vẫn là bạn,” tôi nói, xơi một cái cùi chỏ của Margaret vào mạng sườn. “Không không. Anh ấy có thể sẽ thuyên chuyển tới Chicago. Nên chúng ta cứ để xem thế nào vậy. Mẹ, hoạt động nghệ thuật của mẹ đến đâu rồi ạ?” Một đề tài đảm bảo sẽ chuyển được trung tâm chú ý ra khỏi đời sống tình cảm của tôi.
“Đang trì trệ một chút,” mẹ nói. “Mẹ đang nghĩ đến việc chuyển sang đàn ông. Mẹ quá mệt mỏi với những âm vật và buồng trứng rồi. Có lẽ đã đến lúc cho đề tài dương vật quen thuộc cũ rích rồi.”
“Sao không phải là hoa hả mẹ? Hoặc thỏ hay bươm bướm? Sao cứ phải là bộ phận sinh dục thế ạ?” Margs hỏi.
“Tình hình các vị thế nào rồi ạ?” Birdie, chủ của tiệm đồ cưới Birdie hối hả bước vào, cầm trên tay một bộ váy khác. “Ôi, Natalie yêu dấu, trông cô thật mê hồn! Cứ như quảng cáo trong tạp chí vậy! Như một ngôi sao điện ảnh! Một nàng công chúa!”
“Đừng quên nữ thần Hy Lạp,” Margaret thêm vào.
“Aphrodite, hiện lên từ những ngọn sóng,” Birdie đồng tình.
“Đó có thể là thần Venus,” tôi nói.
“Ồ, Faith, váy của cô đây,” Birdie nói, đưa cho tôi một bộ váy màu hoa hồng, dài chấm đất.
“Là Grace. Tên tôi là Grace.”
“Mặc thử đi, mặc thử đi!” Nat vỗ tay. “Chị mặc màu đỏ trông sẽ rất rực rỡ, Grace!”
“Phải, phù dâu chính. Em trở nên cực kỳ đặc biệt,” Margaret gầm gừ.
“Ôi, bỏ qua chuyện đó đi,” tôi nói, đứng lên khỏi chiếc ghế dài. “Mặc thử váy của chị đi, Margaret, và cư xử cho ngoan ngoãn.”
“Của chị ở ngay đây,” Natalie nói khiến cho Margaret choáng váng. Birdie đưa cho Margs một bộ váy với mấy đường pha màu nhạt hơn của tôi, rồi Margs và tôi vào hai phòng thay đồ khác nhau để thử váy áo.
Tôi bước ra sau tấm rèm. Tôi treo váy lên móc, cởi bỏ quần jean và áo phông, may mà bộ quần áo lót mới vớt vát lại để trông tôi không giống như một cô nàng nhếch nhác. Tôi kéo chiếc váy qua đầu, gỡ tóc ra khỏi khóa kéo và xoay xở để cứ bầu ngực bên trái khỏi bị kẹt. Đấy. Giắt ở đây một cái, đẩy ở kia một tí, và tôi đã kéo xong khóa.
“Được rồi, cùng xem nào!” Natalie kêu lên sốt ruột.
“Ten tèn!” Tôi vui vẻ, bước nhập hội cùng chị em của mình.
“Ôi! Quá rực rỡ! Đây đúng là màu dành cho chị!” Natalie hét lên, vỗ tay ầm ĩ. Con bé đã mặc một bộ váy khác, một tác phẩm lụa trắng lung linh với viền cổ kín đáo, thân áo trên gọn gàng lấp lánh hạt cườm với phần váy bồng bềnh, đồ sộ. Margaret, làm gì cũng nhanh nhẹn hiệu quả, đã chờ sẵn, trông lãnh đạm và vô cùng xinh đẹp trong bộ váy hồng nhạt của mình.
“Lại đây nào, Grace,” mẹ nói. “Đứng cùng với các chị em xem các con trông thế nào nào.”
Tôi vâng lời. Đứng lên mấy cái bục nhỏ bên cạnh bông hồng Natalie thanh nhã, tóc vàng óng, sành điệu. Phía bên kia Natalie là Margaret, mái tóc vàng hung đỏ của chị được khéo léo cắt theo kiểu qua vai hợp thời, hấp dẫn sắc sảo, mảnh mai như một con chó săn, gò má chết người. Chị em của tôi, nói đơn giản, rất xinh đẹp. Thậm chí, sững sờ.
Và rồi sau đó là tôi. Tôi nhận ra rằng mái tóc sẫm của mình chịu đựng thời tiết hôm nay không được tốt và nó lại đang làm cái trò hoang dại mọi khi. Mấy quầng thâm trú dưới mắt tôi. (Ai mà ngủ được sau màn trình diễn của mẹ và bố chứ?) Mấy tháng qua, loanh quanh thế nào mà tôi lại “đắp” thêm tí thịt vào bắp tay, nhờ sự ưu ái của quãng thời gian suốt ngày ôm mấy hộp kem Ben & Jerry. Căn cứ vào một bức ảnh còn lưu giữ được, trông tôi giống như bà cố đằng mẹ tôi, cụ nhập cư từ Kiev.
“Chị trông giống như bà cố Zladova,” tôi bình luận.
Mẹ bật ngửa đầu ra. “Mẹ vẫn luôn thắc mắc không biết con thửa hưởng bộ tóc đó ở đâu.”
“Không phải thế đâu,” Natalie nói chắc nịch.
“Chẳng phải bà là thợ giặt à?” Margaret hỏi.
Tôi đảo mắt. “Tuyệt thật. Nat là Lọ Lem, Margaret là Nicole Kidman, còn mình là bà cố Zladova, thợ giặt của Nga hoàng.”
Mười phút sau, Birdie đã bán xong hàng, mẹ đang tíu tít với mấy phụ kiện cài đầu, Margaret kiểm tra chiếc điện thoại BlackBerry, còn tôi thì cần một chút không khí. “Chị sẽ gặp em ở ngoài nhé, Nat,” tôi nói.
“Chị Grace?” Nat đặt tay lên tay tôi. “Em rất tiếc về chuyện của Wyatt.”
“Ồ,” tôi nói. “Cám ơn em.”
“Chị sẽ tìm được ai đó,” con bé nói khẽ. “Người phù hợp rồi sẽ xuất hiện. Rồi sẽ sớm đến lượt chị.”
Những lời đó nghe như một cái tát. Không, hơn cả mấy lời đó là… khỉ thật, mắt tôi cay cay… là sự thương hại. Trong suốt thời gian tôi và Andrew chia tay, Natalie đã cảm thông, áy náy và rất nhiều những cảm xúc khác, không nghi ngờ gì, nhưng con bé chưa bao giờ thương hại tôi. Không. Em gái tôi vẫn luôn, luôn luôn ngưỡng mộ tôi, ngay cả khi tôi đang gặp khó khăn. Trước đây, chưa bao giờ con bé nhìn tôi bằng ánh mắt như lúc này. Tôi lại là Grace Tội Nghiệp một lần nữa.
“Có thể chị sẽ gặp được ai đó,” tôi chua chat nói. “Nhưng mà này. Em và Andrew có thể dùng chị làm người trông trẻ mà, phải không?”
Con bé tái mặt. “Grace… em không có ý đó.”
“Tất nhiên rồi,” tôi nói nhanh. “Chị biết. Nhưng em biết đấy, Nat, cô đơn đối với chị không phải là điều tệ nhất trên đời. Có phải là chị mất chân mất tay gì đâu.”
“Ôi, không! Tất nhiên là không rồi. Em biết.” Con bé mỉm cười hoang mang.
Tôi hít một hơi thật sâu. “Chị… chị sẽ ở bên ngoài,” tôi nói.
“Được rồi,” con bé ríu rít. “Gặp chị ngoài xe nhé,” nói rồi, nó quay lại với mẹ và bộ váy cưới của mình.
ĐI MUA VÁY VỀ, tôi mệt lử vì những nỗ lực vui vẻ chết tiệt. Theo sau vụ mua váy là bữa tối và đồ uống, đầy những lời chúc tụng tốt đẹp và những câu chuyện về đám cưới. Nhập hội cùng chúng tôi còn có thêm vài người họ hàng nữa - mấy chị em của mẹ và than ôi, chị họ Kitty, Nữ hoàng Mới Cưới, chị tuôn hàng tràng về sự tuyệt vời của hôn nhân. Ở lần thứ ba, những lần số một và số hai không được tốt đẹp lắm, nhưng đó đã là quá khứ, hẳn nhiên rồi, và bây giờ thì Kitty là chuyên gia về Hạnh Phúc Mãi Mãi Về Sau.
Chỉ vài tuần nữa, Andrew và Natalie sẽ thành vợ thành chồng. Tôi không thể chờ được. Thật sự, tôi chỉ mong nó xong đi cho rồi. Như thế, cuối cùng, một chương mới của đời tôi sẽ có thể được bắt đầu.
Angus cào vào cửa bếp đòi ra ngoài. Trời đang mưa, sấm rền xa xa phía đằng Đông. Angus không nằm trong số những con chó sợ bão - nó có trái tim sư tử, ánh chàng bé nhỏ của tôi - nhưng nó không thích bị mưa. “Quay lại sớm nhé,” tôi nói.
Đúng lúc mở cửa, tôi nhìn thấy một cái bóng đen in lên hàng rào phía cuối phần đất của mình. Chớp lóe lên. Một con chồn… chết tiệt! Tôi lao theo con chó. “Không được, Angus! Lại đây ngay!”
Nhưng đã quá trễ. Con chó của tôi, vệt mờ bạo tàn màu trắng, đã xẹt ngang qua sàn. Một ánh chớp khác lóe lên, tôi nhìn thấy đó là một con chồn hương. Nó nhìn lên cảnh giác, rồi biến mất dưới chân hàng rào, trong cái lỗ rất có thể do Angus đào. Một con chồn hương có thể gây thương tích đáng kể cho chú chó nhỏ của tôi, mà nó thì lại không đủ thông minh để hiểu. “Angus! Lại đây! Lại đây nào!”. Không tác dụng gì. Angus hiếm khi nghe lời khi đang đuổi theo một con vật khác, và cứ như thế, nó cũng biến mất theo, dưới hàng rào, đuổi theo con chồn hương.
“Khỉ thật!”, tôi nguyền rủa. Quay trở lại, tôi chạy vào nhà, vớ lấy cái đèn pin rồi chạy trở ra ngoài, vào sân nhà Callahan để khỏi phải trèo qua hàng rào sau nhà mình.
“Grace? Mọi chuyện ổn chứ?” Đèn hiên sau bật mở. Anh đã về.
“Angus đang đuổi theo một con chồn hương,” tôi thốt lên, chạy qua thềm mà không dừng lại, lao qua sân nhà Cal vào rừng, hơi thở của tôi bắt đầu đứt quãng. Hình ảnh con chó nhỏ đáng yêu bị móc mắt, với vết cào trên lưng, máu ướt đẫm toàn bộ lông trắng… Chồn hương rất dữ, và con này hoàn toàn có thể xé xác con chó nhỏ của tôi. Trông nó to hơn Angus nhiều.
“Angus!” tôi gọi, giọng vống lên vì sợ. “Bánh này! Angus! Bánh này!”
Đèn pin trong tay tôi rọi vào làn mưa và những nhành cây ướt đẫm của khu rừng quốc gia. Khi tôi nhao về phía trước, mấy cành cây con quất vào mặt, một nỗi sợ mới cuộn lên trong dạ dày. Con sông. Dòng Farmington cách đây một trăm thước, sau những cơn mưa mùa xuân cùng với tuyết tan đã đầy tràn và tối tăm. Dòng chảy xiết thừa sức cuốn trôi một con chó nhỏ không được thông minh lắm.
Một ánh sáng khác lóe lên cạnh tôi. Callahan, mặc áo mưa và mũ Yankee, đã bắt kịp.
“Nó đi đường nào?” anh hỏi.
“Ôi, Callahan, cám ơn,” tôi thở hổn hển. “Tôi không biết. Nó chui xuống hàng rào. Nó đào hầm. Tôi vẫn thương lấp chúng đi, nhưng lần này… tôi… tôi…” Tôi òa lên nức nở.
“Thôi nào, cố lên. Chúng ta sẽ tìm được nó. Đừng lo, Grace.” Callahan choàng ta qua vai tôi, siết nhẹ, rồi hướng đèn của mình đầu, vào mấy tán cây.
“Tôi không nghĩ nó biết trèo đâu, Cal,” tôi nói trong làn nước, mưa và nước mắt hòa vào nhau trên khuôn mặt tôi khi tôi ngẩng lên.
Cal mỉm cười. “Nhưng chồn hương thì trèo được. Có khi Angus lừa nó chạy lên cây. Nếu chúng ta tìm được con chồn, có lẽ sẽ tìm được con cún của cô.”
Ý kiến hay, nhưng sau năm phút rọi đèn vào các cành cây, chúng tôi chẳng tìm được chồn lẫn chó. Không có dấu hiệu nào của nó cả, tất nhiên nói thế không ó nghĩa tôi là một người theo dấu sành sỏi hay gì cả. Giờ đây chúng toi đã ở gần bờ sông hơn. Dòng sông đã từng nghe thật ngọt ngào và an ủi giờ đây nghe đầy hăm dọa và hung ác… dòng sông vô tâm cứ thế cuồn cuộn qua, cuốn theo bất cứ thứ gì.
“Mấy ngày qua anh ở đâu vậy?” tôi hỏi Callahan, chiếu đèn xuống một cành cây gãy. Không thấy Angus.
“Becky cần tôi làm tí việc ở Stanford,” anh trả lời.
“Becky là ai?”
“Cô gái tóc vàng ở quán rượu ấy. Cô ấy là bạn cũ hồi trung học. Làm việc trong ngành bất động sản. Đó là cách tôi tìm được ngôi nhà này đấy.”
“Đáng lẽ anh có thể nói cho tôi biết anh đi vắng,” tôi liếc sang anh. “Tôi đã rất lo lắng.”
Anh cười. “Lần sau tôi sẽ nói.”
Tôi gọi Angus lần nữa, huýt sáo, vỗ tay. Không thấy gì.
Rồi tôi nghe một tiếng sủa gay gắt phía xa, tiếp theo là tiếng kêu ăng ẳng, cái tiếng kêu đau đớn ghê sợ ấy. “Angus! Angus, mày ở đâu?” tôi gọi, bước về phía trước theo hướng tiếng kêu. Nó vọng xuống từ phía thượng nguồn. Dưới sông? Tôi không thể nói được.
Rất khó để nghe được gì qua tiếng ồn của cơn mưa và dòng nước chảy. Hình ảnh của Angus khi tôi mới mua nó về, một quả bóng run lẩy bẩy bé xíu, một túm len tròn… đôi mắt lấp lánh nó nhìn tôi mỗi sáng, giục tôi thức dậy… cái dáng Siêu Khuyển hài hước của nó… dáng ngủ ngửa, chân chổng lên trời, hàm dưới bé xíu cong cong chìa ra của nó. Tôi khóc dữ dội hơn, “Angus!” tôi liên tục gọi, giọng gay gắt và sợ hãi.
Tôi tới bờ sông. Bình thường tôi nghĩ nó thật đẹp, dòng nước hối hả, lấp lánh, mấy phiến đá bên dưới, bọt trắng tung lên ở nơi dòng nước va vào đá hay cành cây. Đêm nay, nó hung hãn và tối như một con rắn đen. Tôi hướng ánh đèn về phía dòng nước, kinh hoàng nghĩ đến việc nhìn thấy một cái xác trắng bị cuốn đi.
“Ôi, khỉ thật,” tôi nức nở.
“Có thể là nó không nhảy xuống đâu,” Cal nắm lấy tay tôi an ủi. “Nó ngu, nhưng cũng phải có chút bản năng chứ, phải không? Nó không tự làm mình chết đuối đâu.”
“Anh không biết Angus thôi,” tôi sụt sùi. “Nó rất bướng. Khi nó đã muốn cái gì thì nó không dừng lại đâu.”
“Chà, nếu nó đuổi theo con chồn, thì con chồn cũng phải nhận thức đủ chứ.” Cal nói. “Được rồi. Tìm tiếp đi.”
Chúng tôi đi dọc con sông, qua khu rừng, ngày càng cách xa nhà, gọi tên con chó, hứa hẹn cho nó phần thưởng. Không nghe tiếng ăng ẳng nữa, chỉ có tiếng mưa đổ xuống lá cây. Tôi không đi tất, và chân tôi tê cóng bên trong đôi sục làm vườn bê bết bùn. Tất cả là lỗi của tôi. Nó đào hố suốt. Tôi biết thế. Thường thì cuối tuần tôi vẫn kiểm tra hàng rào chỉ vì lý do này. Hôm nay tôi làm. Hôm nay tôi còn phải đi mua váy với Natalie ngu ngốc.
Tôi không muốn hình dung cuộc đời mình không có nó. Angus ngủ trên giường tôi sau khi Andrew bỏ tôi mà đi. Angus cần tôi, chờ đợi tôi, cái đầu nhỏ của nó xuất hiện trên cửa sổ mỗi lần tôi về nhà, quá khích trước sự có mặt diệu kỳ của tôi. Tôi mất nó rồi. Đáng ra tôi phải lấp cái hố ngu ngốc đó, và tôi đã không làm, giờ thì nó đi mất rồi.
Tôi hít vào một hơi rệu rả, nước mắt nóng hổi không ngừng tuôn xuống khuôn mặt đẫm nước mưa của tôi.
“Nó kia rồi,” Cal rọi đèn.
Anh nói đúng. Khoảng ba mươi thước về phía Tây dòng sông, Angus đứng bên cạnh một ngôi nhà nhỏ, giống như nhà tôi, nó đang quay lưng về phía khu rừng. Con chó đang đánh hơi một thùng rác có nắp đồng và nhìn về phía giọng của tôi. Đuôi nó ngoe nguẩy, nó sủa lên một tiếng, rồi quay lại sục sạo thùng rác.
“Angus!” tôi hét, nhào lên gò đất ngăn cách giữa tôi với con chó, “Chó ngoan! Bé ngoan! Mày làm mẹ lo quá! Đúng rồi đấy, là mày đấy!” Nó vẫy đuôi tán thưởng, sủa lần nữa và rồi tôi ôm lấy nó. Ôm được con chó trong tay, tôi hôn cái đầu đẫm nước của nó túi bụi, nước mắt lã chả rơi trên lông nó trong khi nó vui vẻ uốn éo và cắn yêu tôi.
“Được rồi nhé,” Cal nói, tiến lại gần bên tôi. Anh đang cười. Tôi cố cười đáp lại, nhưng miệng tôi méo xệch đi, nên tôi không kéo được nó lên là mấy.
“Cám ơn anh,” tôi cố kiềm chế. Callahan với tay ra để vỗ về Angus, nó đột nhiên nhận ra kẻ thù của mình đang ở đó, liền qua cái đầu nhỏ ra mà tớp.
“Đồ vô ơn,” Cal nói, quắc mắt nhìn con chó. Anh cúi xuống và thu dọn rác vào trong thùng rồi đặt lại tử tế.
“Anh thật tốt quá,” tôi run run nói, ghì chặt con chó vào lòng.
“Đừng nói với giọng ngạc nhiên như thế,” Cal đáp.
Chúng tôi theo lối vào của ngôi nhà để đi xuống phố. Tôi nhận ra khu này rồi - nó cách phố Maple khoảng nửa dặm, có vẻ sang trọng hơn nơi tôi và Cal ở một chút. Mưa nhẹ bớt, và Angus rúc vào vai tôi, làm động tác như em bé, mà áp vào cổ tôi, chân trước đặt trên vai tôi. Tôi kéo áo khoác quanh cơ thể bé nhỏ của nó và cám ơn những thế lực đã giữ an toàn cho con chó nhỏ đần độn của mình, cái con chó mà tôi yêu khôn xiết.
Những thế lực có mặt, và Callahan O’Shea. Anh đã đi cùng tôi trong đêm mưa gió lạnh lẽo này, và không rời khỏi tôi cho đến khi chúng tôi tìm được con chó. Không hề nói một câu nào khó chịu kiểu như, “Ôi, nó sẽ về thôi.” Không. Callahan ở sát bên tôi, trấn an tôi, vỗ về tôi. Nhặt rác vào cho tôi. Tôi muốn nói gì đó, dù không chắc lắm là điều gì, nhưng tôi liếc sang người láng giềng khỏe mạnh, rắn chắc của mình, mặt tôi lại nóng bừng lên đủ để cấp điện cho cả một thành phố nhỏ.
Chúng tôi rẽ vào phố Mapple và ánh sáng từ nhà tôi hắt ra. Tôi nhìn xuống, Cal và tôi đều ngập trong bùn từ chân tới đầu gối, và ướt vào tận da. Angus trông giống một con chuột chũi hơn là một con chó, lòng nó ướt nhẹp và rối tung.
Cal nhận ra cái nhìn của tôi. “Sao cô không qua nhà tôi?” anh gợi ý. “Chúng ta có thể rửa chân tay ở đó. Nhà cô thì như một cái bảo tàng rồi, phải không?”
“À, không hẳn là bảo tàng,” tôi nói. “Chỉ là nó đang chứa kha khá đồ thôi.”
“Kha khá, chắc rồi. Chà, muốn ghé qua không? Không hề gì nếu làm bẩn bếp nhà tôi. Tôi vẫn đang xử lý nó mà.”
“Được thôi. Cám ơn,” tôi nói. Tôi vẫn hay thắc mắc về ngôi nhà này, bên trong nó ra sao, Callahan đang làm gì ở đó. “Mà việc sửa chữa đến đâu rồi? Anh sẽ bán lại ngôi nhà đúng không?”
“Ổn cả. Vào đi. Tôi sẽ đưa cô đi xem một vòng,” anh mời, như đọc được suy nghĩ của tôi.
CAL ĐỂ TÔI VÀO từ cửa sau.
“Tôi sẽ lấy mấy cái khăn tắm,” anh vừa nói vừa tháo đôi ủng lao động và biến mất vào một căn phòng khác. Angus, vẫn nằm trên vai tôi, ngáy khe khẽ, khiến tôi mỉm cười. Tôi bỏ đôi sục làm vườn ra, gạt tóc khỏi mặt và nhìn quanh.
Căn bếp của Callahan đã gần xong. Một chiếc bàn chân rời với ba chiếc ghế không đồng bộ nhìn ra một khung cửa sổ nhô ra phía ngoài mới làm. Tủ bếp làm bằng gỗ thích với các tấm kính, và quầy bếp thì được làm từ đá phiến. Có nhiều khoảng trống cho các dụng cụ, dù đã có bếp đôi và tủ lạnh cỡ lớn. Chắc chắn tôi nên mời anh qua ăn tối, tôi nhủ thầm. Xét đến việc anh tốt với tôi như vậy. Xét đến lúc anh nắm lấy tay tôi. Xét đến chuyện tôi có tình cảm với anh và tuồng như không thể nhớ ra nổi lý do nào mà tôi lại từng nghĩ Callahan O’Shea là một lựa chọn tồi.
Cal trở lại phòng. “Đây,” anh nói, đỡ lấy con cún đang ngủ từ tay tôi và bọc nó vào một chiếc khăn tắm lớn. Anh lau khô bộ lông của con chó, khiến Angus chớp mắt ngái ngủ nhìn người lạ đang bế nó, “Không cắn nhé,” Cal cảnh cáo. Angus vẫy đuôi, Cal cười.
Rồi anh hôn lên đầu con chó.
Chỉ có thế. Không hề nhận ra mình đã di chuyển, tôi thấy tay mình không biết làm sao đã vòng qua cổ Callahan, thấy tôi đã gỡ chiếc mũ Yankee xuống, thấy ngón tay mình lùa vào mái tóc ướt của anh, thấy mình đang ép chặt vào Angus và thấy mình đang hôn Callahan O’Shea. Thôi xong.
“Cũng đến lúc rồi,” anh lẩm nhẩm khẽ bên miệng tôi. Rồi hôn đáp lại.
/34
|