“VÌ SAO CÔ LẠI DẠY Cách mạng Mỹ đồng thời với Chiến tranh Việt Nam?” Hiệu trưởng Stanton nghiêm mặt hởi.
Mười người chúng tôi – Hiệu trưởng, Tiến sĩ Eckhart, bảy vị ủy viên quản trị và tôi – ngồi quanh một chiếc bàn họp bằng gỗ hồ đào trong hội trường Bigby, tòa nhà hành chính chính của Manning, vốn luôn được đưa vào bìa của tất cả các tài liệu quảng bá về trường. Tôi đang thực hiên bài thuyết trình của mình với hội đồng ủy viên, và tôi thấy thật khó ở. Tôi đã thức tới tận hai giờ sáng để hoàn chỉnh bài nói của mình, tập đi tập lại cho tới khi tôi nghĩ mình đã làm được tốt. Sáng nay, tối dậy lức sáu giờ, mặc một trong những bộ dành để hẹn hò với Wyatt, cẩn thận kết hơp phong cách bảo thủ với tinh thần sáng tạo, tạo nếp tóc, ăn một bữa sáng thật ngon dù dạ dày đang trong tình trạng không được khỏe và thì tôi đang băn khoăn không biết có phải đáng ra cần để ý một chút không.
Mọi chuyện không được tốt. Tôi đã kết thúc phần trình bày, và bảy thành viên hội đồng, trong đó có cả Theo Eisenbraun, người yêu đồn đại của Ava, nhìn tôi chằm chằm với rất nhiều cung bậc băn khoăn. Tiến sĩ Eckhart có vẻ lơ mơ, tôi nhận ra và nỗi sợ hãi ngày một dâng cao.
“Đó là một câu hỏi xuất sắc,” tôi nói bằng giọng giáo viên tốt nhất của mình. “Cuộc cách mang Mỹ và chiến tranh Việt Nam có nhiều điểm chung. Hầu hết các khoa lịch sử đều dạy theo trình tự thời gian, đây là điều mà, nói thật, tôi nghĩ là có thể trở nên hơi nhàm chán. Nhưng trong cuộc cách mạng, tình huống của chúng ta là một nhóm nhỏ các công nhân vũ trang nghèo nàn, nhờ sự khôn khéo, dựa vào địa hình và một tinh thần không đầu hàng giản đơn đã giành phần thắng trước một đội quân xâm lược nước ngoài. Những điều tương tự cũng đã được ghi nhận ở Việt Nam.”
“Nhưng hai sự kiện xảy ra ở hai thế kỷ khác nhau,” Andelaide Compton nói.
“Tôi biết điều đó,” Tôi nói, hơi quá gay gắt. “Tôi cảm thấy rằng giảng dạy theo chủ đề chứ không chỉ đơn thuần theo dòng thời gian là cách nên làm. Trong một số trường hợp.”
“Cô muốn dạy một lớp có tên là’ Lạm dụng quyền lực’?” Randall Withington, người đã từng là thượng nghị sĩ đại diện cho bang chúng tôi một thời gian trước, hỏi. Khuôn mặt vốn đã hồng hào của ông dường như vằn lên hơn một chút so với bình thường.
“Tôi nghĩ đó là một khía cạnh vô cùng quang trọng của lịch sử, thế nên, vâng,” tôi nói, bên trong co rúm vì sợ hãi. Thượng nghị sĩ Withington đã bị bãi chức do bị buộc tôi tham ô và, hic, lạm dụng quyền lực.
“Chà, tất cả những ý này đều rất thú vị,” Hunter Graystone II, là cha của Hunter IV và là cựu học sinh của trường Manning nói. Ông ra dấu về phía tập tài liệu năm mươi tư trang của tôi – chương trình giảng dạy cho cả bốn năm, các khóa học cần có, các môn học tự chọn, các học phần, ngân sách, các chuyến đi thực tế, gợi ý về đội ngũ nhân viên, các chiến lược giảng dạy, vai trò của phụ huynh, sự kết hợp của chương trình giảng dạy lịch sử với các môn khác. Tôi đã mã hóa có màu tệp tài liệu đó, bao gồm hình ảnh, biều đồ, đồ thị, in ra và mang ra tiệm Kinko để đóng. Ông Graystone còn chưa mở nó ra. Khốn thật. Tôi đã cho Hunter một điểm B trong bài kiểm tra giữa kỳ (xin nói với bạn là khá công bằng) và ông Graystone đã nhắc nhở tôi về chính chuyện đó khi tôi giới thiệu bản thân nữa giờ trước. “Sao cô không tổng kết lại mọi thứ cho chúng tôi nhỉ, cô Emerson?”
Tiến sĩ Eckhart nhìn lên – không ngủ gật, ơn trời – và gật đầu nhẹ khuyến khích tôi.
“Được ạ,” tôi nói, cố gắng mỉm cười. “Tóm gọn lại thì nó thế này.” Hít một hơi thật sâu, tôi quyết định đem ra hết những gì mình có, không quan tâm tới những khán giả mặt đờ đần nữa. “Tôi muốn học sinh Manning hiểu được tác động của lịch sử tới tình trạng hiện tại của chúng ta. Tôi muốn quá khứ sống dậy với các em, để các em biết trân trọng những hy sinh đã giúp chúng ta có được ngày hôm nay.” Tôi nhìn quanh lần lượt vào từng thành viên hội đồng, buộc họ phải cảm nhận tình yêu của tôi dành cho môn học. “Tôi muốn học sinh của chúng ta học được từ quá khứ bằng một cách sâu sắc hơn nhiều so với việc chỉ ghi nhớ ngày tháng. Tôi muốn các em cảm nhận được rằng cả thế giới đã thay đổi thế nào vì hành động của một người, dù đó là việc Henry VIII tạo ra một tôn giáo mới hay Tiến sĩ King đứng lên kêu gọi quyền bình đẳng trên những bậc thềm của Đài tưởng niệm Lincoln.”
“Thế Tiến sĩ King là ai?” Adelaide hỏi, mặt rất nghiêm túc.
Tôi há hốc miệng. “Martin Luther King con? Nhà hoạt động dân quyền?”
“Tất nhiên. Được rồi. Tiếp tục đi.”
Hít một hơi điềm tĩnh, tôi tiếp. “Vậy, rất nhiều trẻ em ngày nay thấy chúng không liên quan gì tới ngay cả quá khứ gần, không gắn kết gì với các chính sách của đất nước mình, sống trong một thế giới có quá nhiều điều lôi kéo sự chú ý khỏi những hiểu biết thực sự. Tin nhắn, trò chơi điện tử, tán gẫu trên mạng… tất cả những cái đó đều khiến lũ trẻ xa rời việc thực sự sống trong thế giới này và hiểu về nó. Những đứa trẻ này cần phải thấy chúng ta đã ở đâu và làm thế nào chúng ta tới được đây. Các em phải thấy! Bởi vì chính quá khứ của chúng ta quy định tương lai của chúng ta – với tư cách các cá nhân, một quốc gia, cả thế giới. Các em phải hiểu quá khứ, bởi vì các em chính là tương lai.”
Tim tôi đập thình thịch, mặt nóng bừng, tay run lên. Tôi hít một hơi run rẩy và gập hai bàn tay đầy mồ hôi vào nhau. Tôi đã nói xong.
Không ai nói gì. Không một lời nào. Không gì cả, và không phải theo hướng tích cực. Không, cũng công bằng khi nói vẫn có những tiếng dế râm ran.
“Vậy… cô tin rằng bọn trẻ là tương lai của chúng ta.” Theo nói, cố nén cười.
Tôi nhắm mắt thật nhanh. “Phải,” tôi nói. “Đúng thế. Hy vọng các em sẽ có khả năng suy nghĩ khi số phận kên tiếng kêu gọi các em hành động. Vậy đấy.” Tôi đứng dậy và thu dọn giấy tờ. “Rất cảm ơn tất cả các vị đã dành thời gian.”
“Rất… thú vị,” Adelaide nói. “Ờ… chúc may mắn.”
Tôi được đảm bảo rằng tôi sẽ được thông báo nếu được lọt vào vòng sau. Họ đang, tất nhiên, tìm kiếm bên ngoài Manning, abcxyz, vân vân và vân vân. Để lọt được vào vòng sau, cơ hội của tôi rất mong manh. Mong manh là xét trường hợp tốt nhất rồi đấy.
Rõ ràng, lời lẽ trong bài phát biểu nhiệt huyết của tôi đã lọt ra ngoài, vì khi tôi tình cờ gặp Ava chiều muộn hôm rồi trong phòng giáo viên của Lehring, cô ta mỉm cười ẩn ý. “Chào Grace,” cô ta nói. Chớp… chớp… đây rồi… và, phải, chớp cái thứ ba. “Phần thuyết trình của cô với hội đồng thế nào?”
“Tốt lắm,” tôi nói dối. “Rất tích cực.”
“Tốt cho cô,” cô lẩm bẩm, vừa rửa cốc cà phê vừa hát. “Tôi tin bọn trẻ là tương lai của chúng ta... hãy dạy chúng thật tốt và để cho chúng dẫn đường…”
Tôi nghiến răng. “Phần của cô thì thế nào, Ava? Cô nghĩ cái áo lót nâng ngực sẽ vẫy gọi hội đồng ủng hộ cho cô không?”
“Ôi, Grace, tôi thấy thật tiếc cho cô,” cô ta nói, rót thêm cho mình một tí cà phê. “Núi đôi của tôi không phải là thứ họ thích, cưng ạ. Là cách tôi cư xử với mọi người. Dù sao thì. Chúc may mắn nhé.”
Đúng lúc đó, Kiki thò đầu vào cửa. “Grace, rảnh chút không? Ô, chào, Ava, cô khỏe chứ?”
“Tôi rất tuyệt, cảm ơn,” Ava hơi thì thầm. Chớp. Chớp. Và chớp nữa.
“Cậu ổn chứ?” Kiki hỏi khi tôi vào sảnh và đóng cánh cửa phía sau lại.
“Thực ra thì chán đời lắm,” tôi nói.
“Chuyện gì vậy?”
“Bài thuyết trình của tớ không được tốt lắm.” tôi thừa nhận. Tất cả những công tác chuẩn bị co về thành một bài hát của Whiney Houston – đầy nhiệt huyết và toàn cảm xúc. Trong lòng đầy chán nản phẫn uất, tôi nghẹn ngào nước mắt.
“Tớ rất tiếc, nhóc.” Cô vỗ vỗ lên tay tôi. “Nghe này, cậu có muốn tới buổi khiêu vũ dành cho người độc thân của Julian tối thứ Sáu hay không? Rũ mấy cái rắc rối đó ra khỏi đầu? Tớ vẫn chưa gặp được ai cả. Chúa biết vì sao. Tớ vẫn đang thử những phương pháp của Lou như thể chúng được gửi xuống từ núi Sinai đây, cậu biết không?”
“Kiki, cái lớp đó thật ngu ngốc, cậu không nghĩ thế à? Cậu thực sự muốn lừa một anh chàng hẹn hò với cậu bằng cách đóng giả một người không phải là mình ư?”
“Còn cách nào khác à?” cô hỏi. Tôi thở dài. “Được rồi, được rồi, tớ biết. Nhưng hãy đến buổi khiêu vũ với tớ. Nhé? Chỉ để cho bản thân cậu phân tâm thôi?”
“Hic,” tôi trả lời. “Tớ không nghĩ thế đâu.”
Cô hạ giọng. “Có khi cậu sẽ tìm được ai đó để cùng dự đám cưới của em gái cậu cũng nên,” cô gợi ý, đúng là một cô gái độc ác, trái tim đen tối.
Tôi làm bộ nhăn nhó.
“Cũng đáng để thử mà,” cô giả lả.
“Bớ Satan, hãy lui ra đằng sau ta,” tôi lẩm bẩm. “Có thể. Tớ không hứa, nhưng có thể.”
“Được, tuyệt lắm!” Cô liếc đồng hồ. “Chết rồi, tớ phải chạy đây. Ngài May Mắn phải tiêm insulin, và nếu tớ chậm trễ, ngài ấy sẽ cằn nhằn khắp nơi và rồi sẽ bị co giật. Nói chuyện với cậu sau nhé!” Và cô lao đi, chạy xuống sảnh tới chỗ con mèo đang khốn khổ vì y học của mình.
“Chào, Grace.”
Tôi quay lại. “Chào Stuart! Anh khỏe không? Mọi việc thế nào?”
Anh thở dài. “Anh đang hy vọng là em sẽ nói cho anh biết đây.”
Tôi nén xuống một làn sóng nôn nóng. “Stuart, ừm… nghe này. Anh cần phải làm gì đó. Em không phải là trung gian của anh chị, được chứ? Em vô cùng mong muốn anh chị giải quyết được chuyện này, anh cần phải hành động. Anh không nghĩ thế sao?”
“Anh chỉ không biết phải hành động gì thôi,” anh phản đối, gỡ kính xuống để dụi mắt.
“Chà, anh đã cưới chị ấy được bảy năm, Stuart! Cố lên! Nghĩ tới điều gì đó đi!”
Cửa phòng giáo viên bật mở. “Có vấn đề gì ở đây à?” ngực Ava lên tiếng. À thì, miệng cô nàng nói, nhưng cái mớ ngực mà cô ta trưng ra hôm nay, ai mà tập trung được cơ chứ?
“Không, không có gì, Ava,” tôi nhẹ nhàng nói. “Là nói chuyện riêng thôi.”
“Anh thế nào, Stu?” cô ta vo ve. “Tôi nghe nói vợ anh bỏ anh mà đi à. Tôi rất tiếc. Có những người thật không biết trân trọng một người đàn ông tử tế.” Cô ta lắc đầu buồn bã, chớp, chớp, chớp rồi nghênh ngang đi xuống sảnh, mông ngúng nguẩy.
Stuart chăm chú nhìn theo.
“Stuart!” tôi gắt. “Đi gặp vợ anh đi. Làm ơn.”
“Phải,” anh nói khẽ, rời mắt khỏi mông Ava. “Anh sẽ đi, Grace.”
TỐI MUỘN HÔM ĐÓ, tôi thở dài, khoanh tròn ba lần quanh từ xẽ bằng bút đỏ và viết sẽ vào lề bài viết của Kerry Blake. Tôi đang sửa bài trên giường, trong khi Margaret dùng máy tính để chơi trò sắp chữ dưới nhà trong văn phòng bé tí của tôi. Xẽ. Trời ơi!
Kerry là một cô bé đủ thông minh, nhưng ngay cả ở tuổi 17, con bé cũng biết mình không bao giờ phải thực sự lao động để kiếm sống. Mẹ cô bé là thạc sĩ Harvard và là thành viên quản trị của một công ty tư vấn ở Boston. Bố cô bé sở hữu một công ty phần mềm có chi nhánh ở bốn nước, và ông rất thường ghé thăm những chỗ đó bằng máy bay riêng. Kerry sẽ vào được một trong các trường danh tiếng trong danh sách Ivy League, bất kể điểm số của con bé có thế nào. Và, trừ phi có một phép mầu, nếu cô bé quyết định làm việc thay vì đi theo con đường của Paris Hilton, thì chắc cô bé sẽ được làm một công việc lương cao trong một văn phòng hoành tráng, có ba tiếng ăn trưa và đi họp bằng máy bay, nơi cô bé sẽ làm một lượng việc không đáng kể, rồi hưởng tiếng thơm nhờ đám người làm việc bên dưới. Nếu Kerry không phân biệt được mấy thứ chính tả vớ vẩn thì cũng chẳng ai quan tâm.
Trừ tôi. Tôi muốn con bé dùng đến đầu óc thay vì ỷ lại vào gia thế của mình, nhưng Kerry không quan tâm tôi nghĩ gì. Điều đó rất rõ ràng. Hội đồng ủy viên chắc sẽ vui vẻ chia sẻ sự chán nản của con bé.
“Grace ơi!” giọng Margaret dội khắp căn nhà, khiến Angus nhảy dựng lên. Tôi chửi thề, chị gái tôi càng ngày càng giống nội. “Chị đang làm món mì pasta nguyên hạt với xốt súp lơ xanh cho bữa tối. Muốn ăn một ít không?”
Tôi nhăn mặt. “Không cảm ơn. Em sẽ kiếm cái gì sau.” Cái gì đó có pho mát hoặc sô cô la. Có thể là cả hai.
“Rõ. Ôi, chết tiệt. Stuart đang ở đây.”
Ơn Chúa. Tôi lao ra cửa sổ, Angus mừng rỡ tưng tưng nhảy theo. Chắc rồi, anh rể tôi đang đi lên nhà. Trời gần tối, nhưng đôi giày thấp màu trắng tiêu biểu của anh thì tỏa sáng trong ánh sáng đang lịm dần. Tôi mò ra ngoài hành lang để nghe lóm rõ hơn, đóng cửa sau lưng để Angus không lật tẩy tôi được. Margaret lao ra trả lời tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Tôi chỉ thấy được gáy chị, không hơn.
“Anh muốn gì?” chị thô lỗ hỏi. Tôi nhận ra một nốt hài lòng ẩn bên dưới tông giọng của chị… Stuart cuối cùng cũng làm gì đó, và Margaret thì rất trân trọng những việc như thế.
“Margaret, anh nghĩ em nên về nhà.” Giọng Stuart rất khẽ, và tôi phải căng tai ra nghe. Anh không nói thêm gì nữa.
“Chỉ thế thôi sao?” Margaret cáu, nói đúng suy nghĩ của tôi. “Đó là tất cả những gì anh muốn nói?”
“Em còn muốn anh nói gì nữa, Margaret?” anh hỏi yếu ớt. “Anh nhớ em. Anh yêu em. Về nhà đi.”
Mắt tôi tự nhiên ướt nhòe.
“Vì sao? Để chúng ta lại được nhìn nhau chằm chằm mỗi đêm, đến phát chán cả lên ấy à?”
“Anh chưa bao giờ cảm thấy như thế, Margaret. Anh đã rất hạnh phúc,” Stuart nói. “Nếu em không muốn có con, cũng được, nhưng những lời than phiền khác… Anh không biết em muốn anh làm gì. Anh không hề khác gì so với con người mà anh vốn thế.”
“Có khi đó chính là vấn đề đấy,” Margaret nói sắc lạnh.
Stuart thở dài. “Nếu có điều gì đó cụ thể mà em muốn anh làm, anh sẽ làm, nhưng em phải nói với anh. Thế này thật không công bằng.”
“Nếu em nói với anh thì chẳng còn ý nghĩa gì nữa,” Margaret bắt bẻ. “Như thế là ngẫu hứng có kế hoạch, Stuart. Một sự tréo ngoe.”
“Em muốn anh khó đoán và bất ngờ,” Stuart nói, giọng đột nhiên đanh lại. “Liệu em có thích không nếu anh trần truồng chạy xuống Main Street? Hay là nếu anh bắt đầu hít heroin? Anh đi ngoại tình với một cô dọn dẹp nhé? Như thế đã ngạc nhiên chưa?”
“Anh đang cố tình cùn đấy, Stuart. Cho đến khi anh hiểu được ra, em không có gì để nói cả. Tạm biệt.” Margaret đóng cửa lại và tựa vào nó, rồi, một giây sau, nhìn qua ô cửa sổ con. “Đáng nguyền rủa thật,” chị lẩm bẩm. Tôi nghe tiếng ô tô khởi động. Rõ ràng, Stuart đã bỏ đi.
Margaret nhìn thấy tôi đang cúi xuống nhìn từ đầu cầu thang. “Thế nào? ” chị hỏi.
“Margaret,” tôi thận trọng bắt đầu, “anh ấy yêu chị và muốn làm cho chị hạnh phúc. Điều đó không có ý nghĩa gì sao?”
“Grace, không đơn giản như thế đâu!” chị nói. “Anh ấy sẽ hài lòng nếu tối nào trong cuộc sống của bọn chị cũng giống như tối trước. Ăn tối. Trò chuyện lịch sự về văn học và các sự kiện hiện tại. Quan hệ vào những ngày đã quy định. Thi thoảng được dịp đi ăn tối ở ngoài thì anh ấy mất đến nửa tiếng để gọi một chai rượu. Chị chán đến muốn thét lên!”
“Chà, em nghĩ thế này, bạn cùng phòng ạ,” tôi nói, giọng tôi trở nên cứng rắn hơn. “Anh ấy là một người tử tế, chăm chỉ, thông minh và anh ấy ngưỡng mộ chị. Em nghĩ chị đang hành động như một đứa trẻ hư đấy.”
“Grace,” chị nói the thé, “vì em chưa bao giờ lập gia đình, ý kiến của em bây giờ chẳng có gì ý nghĩa mấy. Nên em lo việc của mình đi, được chứ hả?”
“Ồ, hẳn nhiên rồi, Margs. Mà này, tiện thể, chị nghĩ là chị sẽ ở đây bao lâu nữa?” Tất nhiên, như thế là quá quắt, nhưng cảm giác thật dễ chịu.
“Vì sao?” Margaret nói. “Chị làm giảm thời gian của em với Wyatt à?” nói đoạn, chị ào trở lại vào phòng bếp.
Mười phút sau, cảm thấy mình thực sự nên có quyền kiểm soát trong ngôi nhà của mình và không cần phải trốn trong phòng ngủ như thế, tôi đi xuống nhà. Margaret đang đứng bên lò nướng, trộn pasta, nước mắt tuôn xối xả xuống cằm. “Chị xin lỗi,” chị nói lí nhí.
“Được rồi,” tôi thở dài, cơn giận tan biến mất. Margaret chưa bao giờ khóc. Chưa bao giờ.
“Chị có yêu anh ấy, Grace. À, chị nghĩ là chị có, nhưng có những lúc chị cảm thấy như mình bị bóp ngẹt vậy, Grace. Như thế nếu chị có bắt đầu la lên, thì anh ấy cũng thậm chí không thèm để ý. Chị không muốn ly dị, nhưng chị cũng không thể kết hôn với một tờ bia các tông được. Kiểu như trên lý thuyết thì bọn chị rất hợp nhau, nhưng khi thực sự ở bên nhau, chị cứ chết dần. Chị không biết làm gì. Giá như chỉ một lần thôi, anh ấy có thể ra khỏi cái hộp ngu ngốc đó, em biết không? Và ý tưởng về một đứa con…” Chị bắt đầu nức nở. “Cảm giác như là Stuart muốn một đứa con nghĩa là chị không còn là đủ nữa rồi. Mà anh ấy là người đáng ra phải ngưỡng mộ chị chứ.”
“Đúng là anh ấy ngưỡng mộ chị, Margs!”
Chị không nghe. “Hơn nữa, chị là một con mụ quá quắt, Grace ạ, ai mà muốn làm con chị chứ?”
“Chị không phải con mụ quá quắt. Không phải lúc nào cũng thế,” tôi trấn an chị. “Angus yêu chị. Đó là một dấu hiệu còn gì?”
“Em có muốn chị chuyển ra ngoài không? Ở khách sạn hay gì đó.”
“Không, tất nhiên là không rồi. Chị biết quá rõ là chị có thể ở đây bao lâu tùy thích mà,” tôi nói. “Thôi nào. Ôm nhau một cái đi nào.”
Chị vòng tay quanh người tôi và siết thật chặt. “Xin lỗi vì vụ Wyatt nhé,” chị thì thầm.
“Rồi, rồi,” tôi nói, siết chặt đáp lại. Angus, ghen tị vì có tình yêu ở đó nhưng lại không hướng về nó, bắt đầu nhảy lên cằn nhằn.
Margaret lùi lại, buông tôi ra, vớ lấy giấy ăn và lau mắt. “Muốn ăn tối không?” chị đề nghị. “Chị đã làm một ít cho cả hai chị em mình đấy.”
Tôi nhìn vào cái mà chị gọi là bữa tối. “Em cố gắng tránh ăn dây thừng,” tôi nhe răng đáp lại. “Thực ra em không đói. Chắc là em sẽ chỉ ra ngoài ngồi một lát thôi.” Tôi rót cho mình một ly rượu, vỗ vai chị để chị yên tâm là tôi không điên, rồi ra ngoài với con chó trong một đêm tỏa hương ngọt ngào.
Ngồi trong chiếc ghế hóng gió, tôi nhìn quanh sân Angus đang đánh hơi hàng rào phía sau, sục sạo xung quanh như một chú chó bảo vệ cừ khôi thực sự. Tất cả những loại hoa tôi trồng năm ngoái đều lên tuyệt đẹp. Đám mẫu đơn dọc hàng rào hậu nở hoa nặng trĩu, mùi hương ngọt lịm nồng nàn trong đêm. Hương phong thảo phất phơ gần mấy cây thông che chắn cho tôi khỏi số nhà 32 Maple, và phía bên Callahan, diên vĩ mọc thành từng hàng duyên dáng, trắng và chàm, mùi vani và mùi nho. Tử đinh hương chạy dọc sườn phía Đông của ngôi nhà đã tàn, những mùi hương vẫn đáng yêu khôn tả, tạo cảm giác vừa bình yên vừa rộn rã. Âm thanh duy nhất là tiếng nước vỗ từ sông Farmington, tràn đầy cuồn cuộn vào thời gian này trong năm, ào ào cuốn qua những tản đá. Một tiếng còi tàu đâu đó, âm thanh trầm buồn của nó càng nhấn thêm nỗi cô đơn bao phủ lấy tim tôi.
Tại sao con người lại không thể hạnh phúc một mình được nhỉ? Tình yêu bắt trái tim bạn làm con tin. Tôi sẽ bán linh hồn vì Margaret và Natalie, vì bố mẹ tôi, vì Julian, thậm chí vì cả Angus nhỏ bé, anh bạn trung thành của tôi. Bằng chứng là những hành động gần đây của tôi, tôi sẽ làm bất cứ điều gì để tìm ai đó yêu tôi bằng cả trái tim như tôi yêu người đó. Những ngày xa xôi ở bên Andrew dường như đã xảy ra với ai đó khác. Và thậm chí nếu tôi có tìm được ai đó, thì có gì đảm bảo là chuyện đó sẽ kéo dài? Nhìn bố mẹ tôi xem, ngày nào cũng phát điên lên vì người kia. Margaret và Stuart… bảy năm tan thành mây khói. Kiki, Julian và tôi, hoàn toàn lúng túng.
Hình như tôi có khóc một chút. Tôi đưa tay áo lên lau mắt và uống một ngụm rượu kha khá. Tình yêu ngu ngốc Margaret đã đúng. Tình yêu thật đáng chán.
“Grace?”
Đầu tôi ngẩng phắt lên. Callahan O’Shean đang ở bên ngoài, trên mái nhà, nhìn xuống tôi như một vị cứu tinh cổ cồn xanh.
“Chào,” tôi nói.
“Mọi chuyện ổn chứ?” anh hỏi.
“Ô… vâng,” tôi nói. Thật yếu đuối, ngay cả đối với tôi.
“Muốn lên đây không?”
Câu trả lời của tôi làm tôi ngạc nhiên. “Có.”
Tôi để Angus dò xét đám dương xỉ, đi qua cánh cổng nhỏ ngăn cách sân sau với sân trước, và tiến sang ban công sau nhà Callahan. Những tấm ván mới, sắc nét, có mùi sạch sẽ, tỏa sáng lờ mờ trong đêm, và những thanh ngang bằng kim loại của chiếc thang mát lạnh dưới tay tôi. Tôi đi lên, ghé nhìn lên mái nhà nói anh hàng xóm của mình đang đứng.
“Chào,” anh nói, nắm lấy tay để kéo tôi lên.
“Chào,” tôi đáp. Bàn tay anh ấm áp, chắc chắn, và tôi thấy mừng vì chưa bao giờ tôi hâm mộ thang gác cả. Bàn tay đó khiến tôi thấy an toàn. Chỉ một bàn tay, chỉ cần có thế. Tôi buông ra khá là ngần ngừ.
Một tấm chăn tối màu được trải ra trên những tấm lợp gồ ghề. “Chào mừng lên mái nhà,” Callahan nói. “Ngồi đi.”
“Cảm ơn.” Cảnh giác cao độ, tôi ngồi xuống. Cal ngồi cạnh bên tôi. “Anh làm gì ở ngoài này vậy?” tôi hỏi, giữa không gian mát mẻ, tĩnh lặng này giọng nói của tôi có vẻ hơi lớn.
“Tôi chỉ thích nhìn trời thôi,” anh ta trả lời. Nhưng anh ta có đang nhìn trời đâu. Anh ta đang nhìn tôi mà. “Ở trong tù tôi không được làm thế.”
“Bầu trời cũng đẹp đấy chứ,” tôi nói. Khéo quá cơ Grace. Rất là dí dỏm. Tôi có thể cảm thấy hơi ấm của vai anh cạnh vai tôi. “Vậy.”
“Vậy.” Anh thoáng cười, và dạ dày tôi lại từ từ choáng váng cuộn lên. Rồi anh duỗi người ra để nằm trên tấm chăn, chắp tay sau đầu. Sau một giây ngần ngừ, tôi cũng làm theo.
Thật là đẹp. Những ngôi sao đang lấp lánh, bầu trời mịn như nhung và thật là tráng lệ. Bản nhạc đê mê của dòng sông cứ mấy phút lại bị một loài chim đêm nào đó xáo động. Và kia là Callahan O’Shea, hơi ấm vững chai của anh chỉ cách tôi có vài phân.
“Ban nãy cô đang khóc đấy à?” Giọng anh dịu dàng.
“Một chút thôi,” tôi gật đầu.
“Mọi việc ổn chứ?”
Tôi ngừng lại. “Chà, Margaret và Stuart đang trải qua thời kỳ khó khăn. Còn em gái tôi, Nat – nhớ con bé không?” Anh gật đầu. “Mấy tuần nữa con bé sẽ làm đám cưới. Tôi nghĩ chỉ là tôi hơi xúc động một chút thôi.”
“Cô và cái gia đình của cô,” anh bình luận một cách ôn hòa. “Họ chắc phải chẹn cô đến nghẹt thở ấy nhỉ.”
“Hẳn là thế,” tôi rầu rĩ đồng tình.
Con chim ở phía xa lại rền lên. Angus sủa một tiếng đáp lại. “Cô đã kết hôn bao giờ chưa?” Callahan hỏi.
“Chưa,” tôi đáp, nhìn chăm chú lên những ngôi sao mê hồn. “Nhưng hai năm trước tôi đã từng đính hôn.” Chúa ơi. Hai năm trước. Nghe như thể là đã lâu lắm rồi.
“Sao cô lại hủy hôn?”
Tôi đổi tư thế để nhìn anh ta. Thật hay, anh ta cho rằng đó là quyết định của tôi. Hay, nhưng không đúng. “Thực ra tôi không hủy. Là anh ấy. Anh ấy phải lòng một người khác.” Hài hước thật… nói như thể chuyện đó không tệ đến thế. Anh ấy phải lòng một người khác. Chuyện vẫn xảy ra.
Callahan O’Shea quay đầu lại. “Nghe có vẻ như anh ta là một gã ngốc,” anh ta nhẹ nhàng nói.
Ô. Ô. Lại nữa rồi, cái cảm giác cuộn thắt, ấm áp trong lòng. Tôi nuốt nước bọt. “Anh ấy cũng không tệ đến thế,” tôi nói, lại nhìn lên trời. “Anh thì sao. Callahan? Đã bao giờ tiến gần tới bệ thờ chưa?”
“Trước khi vào tù tôi đang gặp gỡ một người. Tôi đoán chuyện đó khá nghiêm túc.” Giọng anh phẳng lặng, bình thản.
“Vì sao hai người chia tay?” tôi nói.
“À, đúng là chúng tôi có gặp khó khăn một chút,” anh trả lời. “Nhưng việc tôi bị bắt mới là giọt nước tràn ly.”
“Anh có nhớ cô ấy không?” tôi không thể ngăn được mình hỏi.
“Một chút,” anh nói. “Thi thoảng. Cứ như là khoảng thời gian hạnh phúc của chúng tôi đã ở một kiếp khác rồi vậy. Tôi gần như không thể nhớ được chúng nữa.”
Câu nói của anh lập lại đúng những suy nghĩ vừa rồi của tôi về Andrew đến nỗi tôi há miệng kinh ngạc. Hẳn là anh đã nhận thấy biểu hiện choáng váng của tôi, bởi vì anh mỉm cười. “Sao nào?” anh hỏi.
“Không có gì. Tôi chỉ… tôi biết cảm giác đó thế nào.” Chúng tôi im lặng một phút nữa, rồi tôi hỏi anh ta một câu khác, một câu hỏi đã từng thắc mắc hơn một lần. “Này, Cal. Tôi đọc được rằng anh nhận tội. Hồi đó anh không muốn ra tòa à?”
Anh ta vẫn nhìn lên trời và không trả lời câu hỏi của tôi mất một giây. “Có quá nhiều bằng chứng, chống lại tôi,” cuối cùng anh ta nói.
Cũng giống như trước đây, tôi có ấn tượng rằng Callahan không nói với tôi tất cả mọi chuyện. Nhưng đó là tội của anh ta, là quá khứ của anh ta, và màn đêm cùng với việc có mặt ở đây, cảm giác thật quá thoải mái để cứ nhấn vào những chuyện như thế. Tôi đang ở ngoài trời, trên mái nhà, với Callahan O’Shea, thế là đủ. Thực ra, là rất đáng yêu.
“Grace này?” Chúa ơi, tôi yêu cách anh ta gọi tên tôi, giọng anh ta trầm và êm ái, với chỉ một chút xíu dấu hiệu của sự dữ dội, như tiếng sấm từ xa trong một đêm hè nóng rực.
Tôi quay đầu lại nhìn anh ta, nhưng anh ta chỉ nhìn sao. “Vâng?”
Anh ta vẫn không nhìn về phía tôi. “Cô đã kết thúc với anh chàng chăn mèo chưa?”
Tim tôi nảy lên, hơi thở đông lại. Trong một khoảnh khắc, tôi tưởng tượng ra mình đang kể với Callahan sự thật về Wyatt Dunn. Tưởng tượng ra cảnh anh ta quay sang nhìn tôi, vẻ mặt hoài nghi, rồi khinh bỉ, đảo mắt và lầm bầm gì đó không hề mang ý ca ngợi về trạng thái cảm xúc của tôi. Tôi chắc như đinh đóng cột không muốn như thế. Callahan O’Shea đang hỏi xem tôi đã xong với Wyatt chưa bởi vì anh ta, phải… không thể chối cãi được… anh ta quan tâm. Tới tôi.
Tôi cắn môi. “Ừm… Wyatt… anh ấy trên lý thuyết thì tuyệt hơn trong đời thực nhiều,” tôi nói, nuốt nước bọt đánh ực. Không hẳn là một lời nói dối. “Thế nên, phải. Chúng tôi quyết định dừng lại.”
“Tốt.” Rồi anh quay sang tôi. Khuôn mặt nghiêm nghị, đôi mắt không thể đoán được dưới ánh sáng mờ ảo của các vì sao. Tim tôi đập chậm lại, và đột nhiên mùi hoa tử đinh hương mới chóng mặt làm sao. Lông mi của Cal thật dài, mắt anh thật đẹp. Và cũng thật là điên rồ khi nhìn anh như thế này, thật gần gũi và còn độc thân, thật ấm áp và vững chãi.
Rất chậm, anh vươn ra để chạm ngón tay vào má tôi. Chỉ một chút âu yếm thôi mà tôi đã phải hít một hơi thật mạnh khi anh chạm hẳn vào mình. Anh đang định hôn tôi. Ôi, Chúa ơi. Tim tôi đập loạn xạ điên cuồng đến nỗi nó chắc đã làm thâm tím cả xương sườn tôi rồi. Cal mỉm cười.
Rồi tiếng Margaret xé tan không gian tĩnh lặng. “Grace? Grace ơi, em ở đâu? Nat gọi điện này!”
“Đến đây!” tôi nói vọng về, đột nhiên loạng quạng. Phát hiện ra cô chủ của mình đang ở trên mái nhà. Angus sủa loạn lên, phá vỡ sự yên ắng thành những mảnh âm thanh ồn ã. “Xin lỗi, Cal. Tôi… Tôi phải đi.”
“Đồ thỏ đế,” anh nói, nhưng mỉm cười.
Tôi tiến thêm một bước lại gần chiếc thang, rồi dừng lại. “Có lẽ lúc nào đó tôi sẽ lại lên đây,” tôi nói.
“Có lẽ thế,” anh đồng ý, ngồi dậy với một động tác nhanh nhẹn, duyên dáng. “Tôi hy vọng cô sẽ giữ lời.”
“Phải đi đây,” tôi thì thào rồi hấp tấp leo xuống thang nhanh nhất có thể. Tiếng cười nhỏ, ám muội của Cal bám theo tôi khi tôi phi vào vườn nhà mình, nơi Angus cuối cùng cũng đã chịu im lặng. Tim tôi nện thình thịch như thể tôi đã chạy được cả dặm.
“Em làm gì ở ngoài đó vậy?” Margaret rít lên khi tôi xộc vào sân trong. “Em ở trên đó với Callahan đấy à?”
“Chào, Margaret,” Cal nói vọng xuống từ trên mái.
“Hai người làm gì trên đó?” chị nói vọng lại.
“Xiếc khỉ(1),” anh trả lời. “Có muốn thử không?”
(1) Nguyên văn: monkey sex – một từ lóng để mô tả việc quan hệ tình dục mạnh bạo kiểu động vật.
“Đừng có dụ dỗ tôi, người nuôi chim nhà tù Akatraz(2),” chị nói, ấn mạnh điện thoại vào tay tôi.
(2) Bird man of Alcatraz: tên một bộ phim kể về một tội nhân trong nhà tù Alcatraz ở vịnh San Francisco.
“A lô?” tôi thở hổn hển.
“Chào, Grace. Em xin lỗi. Em có cắt ngang không?” Giọng Nat nhỏ xíu.
“Ồ, không. Chị chỉ…” tôi hắng giọng. “Chỉ đang nói chuyện với Callahan nhà bên thôi. Chuyện gì vậy?”
“À, em đang băn khoăn không biết chị có rảnh thứ Bảy này không,” con bé nói. “Chị có việc gì phải làm ở trường hay là trận đánh nào không?”
Tôi bước qua cửa trượt vào bếp và liếc lên lịch. “Không. Rảnh cả.”
“Chị có muốn đi mua quần áo với em không?”
Đầu tôi hơi giật ra sau một chút. “Chắc rồi!” nhiệt tình nói. “Mấy giờ?”
“Ừm, có lẽ khoảng ba giờ nhé?” Giọng Nat nghe ngập ngừng đến nỗi tôi dám nói là có vấn đề không ổn.
“Ba giờ ổn đấy,” tôi trả lời.
“Chị có chắc không?”
“Có chứ! Tất nhiên rồi, Bumppo. Sao em nghe có vẻ lạ thế?”
“Margaret nói có thể em nên tha cho chị và đi mà không có chị.”
Margs già tốt bụng. Chị gái tôi đã đúng – sẽ dễ chịu vô cùng nếu chuồn được khỏi cái sự kiện đám cưới này, nhưng tôi phải đi. “Chị muốn đi cùng, Nat,” tôi nói. Nói sao thì nói, một phần trong tôi thực sự muốn. “Gặp em lúc ba giờ nhé.”
“Sao em nuông chiều nó quá vậy?” Margaret cau có khi tôi dập máy. Angus lao vào, suýt nữa làm chị vấp, nhưng chị lờ nó đi. “Hãy bảo nó mở mắt ra và nghĩ tới ai đó khác mà thay đổi thử đi. Con bé còn nằm trên giường bệnh viện nữa đâu, Grace.”
“Em biết thế, Margaret thân mến. Nhưng khốn nỗi đó là váy cưới của con bé. Và em thì đã vượt qua được chuyện với Andrew rồi. Em không quan tâm nếu con bé cưới anh ta, con bé là em gái bọn mình và bọn mình đều nên có mặt ở đó.”
Margaret ngồi bịch xuống một chiếc ghế trong bếp và bế Angus lên, nó liếm cằm chị cuồng nhiệt. “Công chúa Natalie. Chúa cấm con bé nghĩ cho người khác.”
“Con bé không phải như thế! Chúa ơi, Margs, sao chị lại khó tính với nó như vậy?”
Margaret nhún vai. “Có lẽ chị nghĩ con bé cũng thỉnh thoảng phải gặp khó khăn một chút. Nó sống trong một cuộc sống kỳ diệu, Grace. Đáng yêu, xinh đẹp, thông minh. Con bé có được mọi thứ.”
“Không giống chị, nghèo khổ, mồ côi, cục mịch nhỉ?” tôi hỏi.
“Phải, chị thì cá tính không rõ nét và hào quang thì lờ mờ.” Chị thở dài. “Em biết chị đang nói về cái gì đấy, Grace. Thừa nhận đi. Nat vẫn lướt đi trong cuộc đời trên một đám mây trắng bồng bềnh với một cái cầu vồng chết tiệt trên đầu trong khi bọn chim xanh ca hót líu lo xung quanh con bé. Chị, chị đã phải ì ạch lội qua cuộc sống này, còn em… em… đã…” Tiếng chị tắt lịm.
“Em đã làm sao?” tôi hỏi, xù lông lên.
Chị không trả lời trong một giây. “Em đã đụng phải một vài bức tường.”
“Ý chị là Andrew.”
“À, chắc rồi. Nhưng em có nhớ khi nhà mình mới chuyển tới Connecticut, và em bị lạc không?” Chắc chắn là tôi có nhớ. Hồi tôi còn đang hẹn hò với Jack ở nhà hàng Le Cirque. Margaret tiếp. “Và rồi cái năm em sống với bố mẹ sau khi tốt nghiệp, hồi em phải đi làm bồi bàn mất một năm ấy?”
“Em đang dành thời gian nghỉ ngơi để tìm hiểu xem em muốn làm gì,” tôi cấm cảu. “Vả lại, bồi bàn là một kỹ năng sống mà em sẽ không bao giờ mất.”
“Tất nhiên rồi. Như thế chẳng có gì là sai cả. Chỉ là Nat chưa bao giờ phải lăn tăn, chưa bao giờ lạc lối, chưa bao giờ nghi ngờ bản thân, chưa bao giờ tưởng tượng được rằng cuộc sống có thể không hoàn hảo với con bé. Cho tới khi nó gặp Andrew và rồi tìm thấy điều gì đó nó không thể có, cái điều mà cuối cùng em cũng trao cho nó. Vậy nên nếu chị nghĩ con bé có phần ích kỷ thì đó chính là lý do.”
“Em nghĩ là chị ghen tị với nó.” tôi đau đớn nói.
“Đương nhiên là chị ghen tị với nó rồi, đồ ngốc xít.” Margaret trìu mến. Thành thật mà nói, tôi chẳng bao giờ hiểu rõ được Margaret cả. “Mà này,” chị thêm, “em làm gì trên mái nhà với Người Khổng Lồ Nóng Bỏng Nhà Bên đấy?”
Tôi hít một hơi sâu. “Bọn em chỉ ngắm trời thôi. Nói chuyện.”
Margaret nhăn mặt với tôi. “Em có thích anh ta không, Grace?”
Tôi có thể cảm thấy mặt mình ửng lên. “Có hơi. Có. Chắc chắn. Em có.”
“Hừm.” Margs nhìn tôi với nụ cười cướp biển.
“Sao?”
“Chẳng sao cả. Anh chàng là một bước tiến lớn so với Andrew Tẻ Nhạt. Chúa ơi, tưởng tượng ra lúc làm tình với Callahan O’Shea mà xem. Chỉ cái tên của anh ta thôi cũng cho chị một cơn cực khoái.” Chị cười ngặt nghẽo, còn tôi thì cười ngượng nghịu. Margaret đứng dậy và vỗ vai tôi. “Chỉ cần đảm bảo là em không làm thế để chứng tỏ với Andrew rằng ngoài kia có người thèm muốn em, được chứ?”
“Ôi chao. Lãng mạn làm sao, em nghĩ em khóc mất.”
Chị nhe răng cười lần nữa như thể trước đây chị đã từng là cướp biển. “Chà, chị kiệt sức rồi. Chị phải viết một bản tóm tắt rồi đi nằm đây. Ngủ ngon, Gracie.” Chị đưa lại cho tôi con chó bé xíu, nó tựa đầu vào vai tôi và thở dài khoan khoái. “Và, Grace, còn một chuyện nữa phải nói khi chị còn giữ được cái oai của bà chị cả.” Chị thở dài. “Coi này. Chị biết em đang cố gắng để đi tiếp và nhiều việc khác, và chị không trách em. Nhưng dù trông Cal có tuyệt đến đâu khi không mặc áo, anh ta cũng sẽ luôn luôn có một tiền án, và những thứ đó lúc nào cũng bám theo con người ta.”
“Em biết,” tôi thừa nhận. Ava và tôi đều đã lọt vào vòng hai của cuộc phỏng vấn cho chức chủ nhiệm, quá sức ngạc nhiên. Tôi vẫn không hoàn toàn hy vọng, nhưng Margaret đã đúng. Quá khứ của Callahan O’Shea sẽ là vấn đề ở Manning. Có thể không cần phải thế, nhưng sẽ thế.
“Hãy chắc chắn là em biết mình muốn gì, nhóc ạ,” Margs nói. “Chị chỉ nói thế thôi. Chị nghĩ Cal khá là hay ho và em rất có thể nên vui vẻ một chút. Nhưng hãy luôn nhớ rằng em là một giáo viên ở trường trung học, và điều này có thể quan trọng đối với những người tốt ở Manning đấy. Chưa nói đến bố mẹ.”
Tôi không trả lời. Như mọi khi, Margaret đã đúng.
Mười người chúng tôi – Hiệu trưởng, Tiến sĩ Eckhart, bảy vị ủy viên quản trị và tôi – ngồi quanh một chiếc bàn họp bằng gỗ hồ đào trong hội trường Bigby, tòa nhà hành chính chính của Manning, vốn luôn được đưa vào bìa của tất cả các tài liệu quảng bá về trường. Tôi đang thực hiên bài thuyết trình của mình với hội đồng ủy viên, và tôi thấy thật khó ở. Tôi đã thức tới tận hai giờ sáng để hoàn chỉnh bài nói của mình, tập đi tập lại cho tới khi tôi nghĩ mình đã làm được tốt. Sáng nay, tối dậy lức sáu giờ, mặc một trong những bộ dành để hẹn hò với Wyatt, cẩn thận kết hơp phong cách bảo thủ với tinh thần sáng tạo, tạo nếp tóc, ăn một bữa sáng thật ngon dù dạ dày đang trong tình trạng không được khỏe và thì tôi đang băn khoăn không biết có phải đáng ra cần để ý một chút không.
Mọi chuyện không được tốt. Tôi đã kết thúc phần trình bày, và bảy thành viên hội đồng, trong đó có cả Theo Eisenbraun, người yêu đồn đại của Ava, nhìn tôi chằm chằm với rất nhiều cung bậc băn khoăn. Tiến sĩ Eckhart có vẻ lơ mơ, tôi nhận ra và nỗi sợ hãi ngày một dâng cao.
“Đó là một câu hỏi xuất sắc,” tôi nói bằng giọng giáo viên tốt nhất của mình. “Cuộc cách mang Mỹ và chiến tranh Việt Nam có nhiều điểm chung. Hầu hết các khoa lịch sử đều dạy theo trình tự thời gian, đây là điều mà, nói thật, tôi nghĩ là có thể trở nên hơi nhàm chán. Nhưng trong cuộc cách mạng, tình huống của chúng ta là một nhóm nhỏ các công nhân vũ trang nghèo nàn, nhờ sự khôn khéo, dựa vào địa hình và một tinh thần không đầu hàng giản đơn đã giành phần thắng trước một đội quân xâm lược nước ngoài. Những điều tương tự cũng đã được ghi nhận ở Việt Nam.”
“Nhưng hai sự kiện xảy ra ở hai thế kỷ khác nhau,” Andelaide Compton nói.
“Tôi biết điều đó,” Tôi nói, hơi quá gay gắt. “Tôi cảm thấy rằng giảng dạy theo chủ đề chứ không chỉ đơn thuần theo dòng thời gian là cách nên làm. Trong một số trường hợp.”
“Cô muốn dạy một lớp có tên là’ Lạm dụng quyền lực’?” Randall Withington, người đã từng là thượng nghị sĩ đại diện cho bang chúng tôi một thời gian trước, hỏi. Khuôn mặt vốn đã hồng hào của ông dường như vằn lên hơn một chút so với bình thường.
“Tôi nghĩ đó là một khía cạnh vô cùng quang trọng của lịch sử, thế nên, vâng,” tôi nói, bên trong co rúm vì sợ hãi. Thượng nghị sĩ Withington đã bị bãi chức do bị buộc tôi tham ô và, hic, lạm dụng quyền lực.
“Chà, tất cả những ý này đều rất thú vị,” Hunter Graystone II, là cha của Hunter IV và là cựu học sinh của trường Manning nói. Ông ra dấu về phía tập tài liệu năm mươi tư trang của tôi – chương trình giảng dạy cho cả bốn năm, các khóa học cần có, các môn học tự chọn, các học phần, ngân sách, các chuyến đi thực tế, gợi ý về đội ngũ nhân viên, các chiến lược giảng dạy, vai trò của phụ huynh, sự kết hợp của chương trình giảng dạy lịch sử với các môn khác. Tôi đã mã hóa có màu tệp tài liệu đó, bao gồm hình ảnh, biều đồ, đồ thị, in ra và mang ra tiệm Kinko để đóng. Ông Graystone còn chưa mở nó ra. Khốn thật. Tôi đã cho Hunter một điểm B trong bài kiểm tra giữa kỳ (xin nói với bạn là khá công bằng) và ông Graystone đã nhắc nhở tôi về chính chuyện đó khi tôi giới thiệu bản thân nữa giờ trước. “Sao cô không tổng kết lại mọi thứ cho chúng tôi nhỉ, cô Emerson?”
Tiến sĩ Eckhart nhìn lên – không ngủ gật, ơn trời – và gật đầu nhẹ khuyến khích tôi.
“Được ạ,” tôi nói, cố gắng mỉm cười. “Tóm gọn lại thì nó thế này.” Hít một hơi thật sâu, tôi quyết định đem ra hết những gì mình có, không quan tâm tới những khán giả mặt đờ đần nữa. “Tôi muốn học sinh Manning hiểu được tác động của lịch sử tới tình trạng hiện tại của chúng ta. Tôi muốn quá khứ sống dậy với các em, để các em biết trân trọng những hy sinh đã giúp chúng ta có được ngày hôm nay.” Tôi nhìn quanh lần lượt vào từng thành viên hội đồng, buộc họ phải cảm nhận tình yêu của tôi dành cho môn học. “Tôi muốn học sinh của chúng ta học được từ quá khứ bằng một cách sâu sắc hơn nhiều so với việc chỉ ghi nhớ ngày tháng. Tôi muốn các em cảm nhận được rằng cả thế giới đã thay đổi thế nào vì hành động của một người, dù đó là việc Henry VIII tạo ra một tôn giáo mới hay Tiến sĩ King đứng lên kêu gọi quyền bình đẳng trên những bậc thềm của Đài tưởng niệm Lincoln.”
“Thế Tiến sĩ King là ai?” Adelaide hỏi, mặt rất nghiêm túc.
Tôi há hốc miệng. “Martin Luther King con? Nhà hoạt động dân quyền?”
“Tất nhiên. Được rồi. Tiếp tục đi.”
Hít một hơi điềm tĩnh, tôi tiếp. “Vậy, rất nhiều trẻ em ngày nay thấy chúng không liên quan gì tới ngay cả quá khứ gần, không gắn kết gì với các chính sách của đất nước mình, sống trong một thế giới có quá nhiều điều lôi kéo sự chú ý khỏi những hiểu biết thực sự. Tin nhắn, trò chơi điện tử, tán gẫu trên mạng… tất cả những cái đó đều khiến lũ trẻ xa rời việc thực sự sống trong thế giới này và hiểu về nó. Những đứa trẻ này cần phải thấy chúng ta đã ở đâu và làm thế nào chúng ta tới được đây. Các em phải thấy! Bởi vì chính quá khứ của chúng ta quy định tương lai của chúng ta – với tư cách các cá nhân, một quốc gia, cả thế giới. Các em phải hiểu quá khứ, bởi vì các em chính là tương lai.”
Tim tôi đập thình thịch, mặt nóng bừng, tay run lên. Tôi hít một hơi run rẩy và gập hai bàn tay đầy mồ hôi vào nhau. Tôi đã nói xong.
Không ai nói gì. Không một lời nào. Không gì cả, và không phải theo hướng tích cực. Không, cũng công bằng khi nói vẫn có những tiếng dế râm ran.
“Vậy… cô tin rằng bọn trẻ là tương lai của chúng ta.” Theo nói, cố nén cười.
Tôi nhắm mắt thật nhanh. “Phải,” tôi nói. “Đúng thế. Hy vọng các em sẽ có khả năng suy nghĩ khi số phận kên tiếng kêu gọi các em hành động. Vậy đấy.” Tôi đứng dậy và thu dọn giấy tờ. “Rất cảm ơn tất cả các vị đã dành thời gian.”
“Rất… thú vị,” Adelaide nói. “Ờ… chúc may mắn.”
Tôi được đảm bảo rằng tôi sẽ được thông báo nếu được lọt vào vòng sau. Họ đang, tất nhiên, tìm kiếm bên ngoài Manning, abcxyz, vân vân và vân vân. Để lọt được vào vòng sau, cơ hội của tôi rất mong manh. Mong manh là xét trường hợp tốt nhất rồi đấy.
Rõ ràng, lời lẽ trong bài phát biểu nhiệt huyết của tôi đã lọt ra ngoài, vì khi tôi tình cờ gặp Ava chiều muộn hôm rồi trong phòng giáo viên của Lehring, cô ta mỉm cười ẩn ý. “Chào Grace,” cô ta nói. Chớp… chớp… đây rồi… và, phải, chớp cái thứ ba. “Phần thuyết trình của cô với hội đồng thế nào?”
“Tốt lắm,” tôi nói dối. “Rất tích cực.”
“Tốt cho cô,” cô lẩm bẩm, vừa rửa cốc cà phê vừa hát. “Tôi tin bọn trẻ là tương lai của chúng ta... hãy dạy chúng thật tốt và để cho chúng dẫn đường…”
Tôi nghiến răng. “Phần của cô thì thế nào, Ava? Cô nghĩ cái áo lót nâng ngực sẽ vẫy gọi hội đồng ủng hộ cho cô không?”
“Ôi, Grace, tôi thấy thật tiếc cho cô,” cô ta nói, rót thêm cho mình một tí cà phê. “Núi đôi của tôi không phải là thứ họ thích, cưng ạ. Là cách tôi cư xử với mọi người. Dù sao thì. Chúc may mắn nhé.”
Đúng lúc đó, Kiki thò đầu vào cửa. “Grace, rảnh chút không? Ô, chào, Ava, cô khỏe chứ?”
“Tôi rất tuyệt, cảm ơn,” Ava hơi thì thầm. Chớp. Chớp. Và chớp nữa.
“Cậu ổn chứ?” Kiki hỏi khi tôi vào sảnh và đóng cánh cửa phía sau lại.
“Thực ra thì chán đời lắm,” tôi nói.
“Chuyện gì vậy?”
“Bài thuyết trình của tớ không được tốt lắm.” tôi thừa nhận. Tất cả những công tác chuẩn bị co về thành một bài hát của Whiney Houston – đầy nhiệt huyết và toàn cảm xúc. Trong lòng đầy chán nản phẫn uất, tôi nghẹn ngào nước mắt.
“Tớ rất tiếc, nhóc.” Cô vỗ vỗ lên tay tôi. “Nghe này, cậu có muốn tới buổi khiêu vũ dành cho người độc thân của Julian tối thứ Sáu hay không? Rũ mấy cái rắc rối đó ra khỏi đầu? Tớ vẫn chưa gặp được ai cả. Chúa biết vì sao. Tớ vẫn đang thử những phương pháp của Lou như thể chúng được gửi xuống từ núi Sinai đây, cậu biết không?”
“Kiki, cái lớp đó thật ngu ngốc, cậu không nghĩ thế à? Cậu thực sự muốn lừa một anh chàng hẹn hò với cậu bằng cách đóng giả một người không phải là mình ư?”
“Còn cách nào khác à?” cô hỏi. Tôi thở dài. “Được rồi, được rồi, tớ biết. Nhưng hãy đến buổi khiêu vũ với tớ. Nhé? Chỉ để cho bản thân cậu phân tâm thôi?”
“Hic,” tôi trả lời. “Tớ không nghĩ thế đâu.”
Cô hạ giọng. “Có khi cậu sẽ tìm được ai đó để cùng dự đám cưới của em gái cậu cũng nên,” cô gợi ý, đúng là một cô gái độc ác, trái tim đen tối.
Tôi làm bộ nhăn nhó.
“Cũng đáng để thử mà,” cô giả lả.
“Bớ Satan, hãy lui ra đằng sau ta,” tôi lẩm bẩm. “Có thể. Tớ không hứa, nhưng có thể.”
“Được, tuyệt lắm!” Cô liếc đồng hồ. “Chết rồi, tớ phải chạy đây. Ngài May Mắn phải tiêm insulin, và nếu tớ chậm trễ, ngài ấy sẽ cằn nhằn khắp nơi và rồi sẽ bị co giật. Nói chuyện với cậu sau nhé!” Và cô lao đi, chạy xuống sảnh tới chỗ con mèo đang khốn khổ vì y học của mình.
“Chào, Grace.”
Tôi quay lại. “Chào Stuart! Anh khỏe không? Mọi việc thế nào?”
Anh thở dài. “Anh đang hy vọng là em sẽ nói cho anh biết đây.”
Tôi nén xuống một làn sóng nôn nóng. “Stuart, ừm… nghe này. Anh cần phải làm gì đó. Em không phải là trung gian của anh chị, được chứ? Em vô cùng mong muốn anh chị giải quyết được chuyện này, anh cần phải hành động. Anh không nghĩ thế sao?”
“Anh chỉ không biết phải hành động gì thôi,” anh phản đối, gỡ kính xuống để dụi mắt.
“Chà, anh đã cưới chị ấy được bảy năm, Stuart! Cố lên! Nghĩ tới điều gì đó đi!”
Cửa phòng giáo viên bật mở. “Có vấn đề gì ở đây à?” ngực Ava lên tiếng. À thì, miệng cô nàng nói, nhưng cái mớ ngực mà cô ta trưng ra hôm nay, ai mà tập trung được cơ chứ?
“Không, không có gì, Ava,” tôi nhẹ nhàng nói. “Là nói chuyện riêng thôi.”
“Anh thế nào, Stu?” cô ta vo ve. “Tôi nghe nói vợ anh bỏ anh mà đi à. Tôi rất tiếc. Có những người thật không biết trân trọng một người đàn ông tử tế.” Cô ta lắc đầu buồn bã, chớp, chớp, chớp rồi nghênh ngang đi xuống sảnh, mông ngúng nguẩy.
Stuart chăm chú nhìn theo.
“Stuart!” tôi gắt. “Đi gặp vợ anh đi. Làm ơn.”
“Phải,” anh nói khẽ, rời mắt khỏi mông Ava. “Anh sẽ đi, Grace.”
TỐI MUỘN HÔM ĐÓ, tôi thở dài, khoanh tròn ba lần quanh từ xẽ bằng bút đỏ và viết sẽ vào lề bài viết của Kerry Blake. Tôi đang sửa bài trên giường, trong khi Margaret dùng máy tính để chơi trò sắp chữ dưới nhà trong văn phòng bé tí của tôi. Xẽ. Trời ơi!
Kerry là một cô bé đủ thông minh, nhưng ngay cả ở tuổi 17, con bé cũng biết mình không bao giờ phải thực sự lao động để kiếm sống. Mẹ cô bé là thạc sĩ Harvard và là thành viên quản trị của một công ty tư vấn ở Boston. Bố cô bé sở hữu một công ty phần mềm có chi nhánh ở bốn nước, và ông rất thường ghé thăm những chỗ đó bằng máy bay riêng. Kerry sẽ vào được một trong các trường danh tiếng trong danh sách Ivy League, bất kể điểm số của con bé có thế nào. Và, trừ phi có một phép mầu, nếu cô bé quyết định làm việc thay vì đi theo con đường của Paris Hilton, thì chắc cô bé sẽ được làm một công việc lương cao trong một văn phòng hoành tráng, có ba tiếng ăn trưa và đi họp bằng máy bay, nơi cô bé sẽ làm một lượng việc không đáng kể, rồi hưởng tiếng thơm nhờ đám người làm việc bên dưới. Nếu Kerry không phân biệt được mấy thứ chính tả vớ vẩn thì cũng chẳng ai quan tâm.
Trừ tôi. Tôi muốn con bé dùng đến đầu óc thay vì ỷ lại vào gia thế của mình, nhưng Kerry không quan tâm tôi nghĩ gì. Điều đó rất rõ ràng. Hội đồng ủy viên chắc sẽ vui vẻ chia sẻ sự chán nản của con bé.
“Grace ơi!” giọng Margaret dội khắp căn nhà, khiến Angus nhảy dựng lên. Tôi chửi thề, chị gái tôi càng ngày càng giống nội. “Chị đang làm món mì pasta nguyên hạt với xốt súp lơ xanh cho bữa tối. Muốn ăn một ít không?”
Tôi nhăn mặt. “Không cảm ơn. Em sẽ kiếm cái gì sau.” Cái gì đó có pho mát hoặc sô cô la. Có thể là cả hai.
“Rõ. Ôi, chết tiệt. Stuart đang ở đây.”
Ơn Chúa. Tôi lao ra cửa sổ, Angus mừng rỡ tưng tưng nhảy theo. Chắc rồi, anh rể tôi đang đi lên nhà. Trời gần tối, nhưng đôi giày thấp màu trắng tiêu biểu của anh thì tỏa sáng trong ánh sáng đang lịm dần. Tôi mò ra ngoài hành lang để nghe lóm rõ hơn, đóng cửa sau lưng để Angus không lật tẩy tôi được. Margaret lao ra trả lời tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Tôi chỉ thấy được gáy chị, không hơn.
“Anh muốn gì?” chị thô lỗ hỏi. Tôi nhận ra một nốt hài lòng ẩn bên dưới tông giọng của chị… Stuart cuối cùng cũng làm gì đó, và Margaret thì rất trân trọng những việc như thế.
“Margaret, anh nghĩ em nên về nhà.” Giọng Stuart rất khẽ, và tôi phải căng tai ra nghe. Anh không nói thêm gì nữa.
“Chỉ thế thôi sao?” Margaret cáu, nói đúng suy nghĩ của tôi. “Đó là tất cả những gì anh muốn nói?”
“Em còn muốn anh nói gì nữa, Margaret?” anh hỏi yếu ớt. “Anh nhớ em. Anh yêu em. Về nhà đi.”
Mắt tôi tự nhiên ướt nhòe.
“Vì sao? Để chúng ta lại được nhìn nhau chằm chằm mỗi đêm, đến phát chán cả lên ấy à?”
“Anh chưa bao giờ cảm thấy như thế, Margaret. Anh đã rất hạnh phúc,” Stuart nói. “Nếu em không muốn có con, cũng được, nhưng những lời than phiền khác… Anh không biết em muốn anh làm gì. Anh không hề khác gì so với con người mà anh vốn thế.”
“Có khi đó chính là vấn đề đấy,” Margaret nói sắc lạnh.
Stuart thở dài. “Nếu có điều gì đó cụ thể mà em muốn anh làm, anh sẽ làm, nhưng em phải nói với anh. Thế này thật không công bằng.”
“Nếu em nói với anh thì chẳng còn ý nghĩa gì nữa,” Margaret bắt bẻ. “Như thế là ngẫu hứng có kế hoạch, Stuart. Một sự tréo ngoe.”
“Em muốn anh khó đoán và bất ngờ,” Stuart nói, giọng đột nhiên đanh lại. “Liệu em có thích không nếu anh trần truồng chạy xuống Main Street? Hay là nếu anh bắt đầu hít heroin? Anh đi ngoại tình với một cô dọn dẹp nhé? Như thế đã ngạc nhiên chưa?”
“Anh đang cố tình cùn đấy, Stuart. Cho đến khi anh hiểu được ra, em không có gì để nói cả. Tạm biệt.” Margaret đóng cửa lại và tựa vào nó, rồi, một giây sau, nhìn qua ô cửa sổ con. “Đáng nguyền rủa thật,” chị lẩm bẩm. Tôi nghe tiếng ô tô khởi động. Rõ ràng, Stuart đã bỏ đi.
Margaret nhìn thấy tôi đang cúi xuống nhìn từ đầu cầu thang. “Thế nào? ” chị hỏi.
“Margaret,” tôi thận trọng bắt đầu, “anh ấy yêu chị và muốn làm cho chị hạnh phúc. Điều đó không có ý nghĩa gì sao?”
“Grace, không đơn giản như thế đâu!” chị nói. “Anh ấy sẽ hài lòng nếu tối nào trong cuộc sống của bọn chị cũng giống như tối trước. Ăn tối. Trò chuyện lịch sự về văn học và các sự kiện hiện tại. Quan hệ vào những ngày đã quy định. Thi thoảng được dịp đi ăn tối ở ngoài thì anh ấy mất đến nửa tiếng để gọi một chai rượu. Chị chán đến muốn thét lên!”
“Chà, em nghĩ thế này, bạn cùng phòng ạ,” tôi nói, giọng tôi trở nên cứng rắn hơn. “Anh ấy là một người tử tế, chăm chỉ, thông minh và anh ấy ngưỡng mộ chị. Em nghĩ chị đang hành động như một đứa trẻ hư đấy.”
“Grace,” chị nói the thé, “vì em chưa bao giờ lập gia đình, ý kiến của em bây giờ chẳng có gì ý nghĩa mấy. Nên em lo việc của mình đi, được chứ hả?”
“Ồ, hẳn nhiên rồi, Margs. Mà này, tiện thể, chị nghĩ là chị sẽ ở đây bao lâu nữa?” Tất nhiên, như thế là quá quắt, nhưng cảm giác thật dễ chịu.
“Vì sao?” Margaret nói. “Chị làm giảm thời gian của em với Wyatt à?” nói đoạn, chị ào trở lại vào phòng bếp.
Mười phút sau, cảm thấy mình thực sự nên có quyền kiểm soát trong ngôi nhà của mình và không cần phải trốn trong phòng ngủ như thế, tôi đi xuống nhà. Margaret đang đứng bên lò nướng, trộn pasta, nước mắt tuôn xối xả xuống cằm. “Chị xin lỗi,” chị nói lí nhí.
“Được rồi,” tôi thở dài, cơn giận tan biến mất. Margaret chưa bao giờ khóc. Chưa bao giờ.
“Chị có yêu anh ấy, Grace. À, chị nghĩ là chị có, nhưng có những lúc chị cảm thấy như mình bị bóp ngẹt vậy, Grace. Như thế nếu chị có bắt đầu la lên, thì anh ấy cũng thậm chí không thèm để ý. Chị không muốn ly dị, nhưng chị cũng không thể kết hôn với một tờ bia các tông được. Kiểu như trên lý thuyết thì bọn chị rất hợp nhau, nhưng khi thực sự ở bên nhau, chị cứ chết dần. Chị không biết làm gì. Giá như chỉ một lần thôi, anh ấy có thể ra khỏi cái hộp ngu ngốc đó, em biết không? Và ý tưởng về một đứa con…” Chị bắt đầu nức nở. “Cảm giác như là Stuart muốn một đứa con nghĩa là chị không còn là đủ nữa rồi. Mà anh ấy là người đáng ra phải ngưỡng mộ chị chứ.”
“Đúng là anh ấy ngưỡng mộ chị, Margs!”
Chị không nghe. “Hơn nữa, chị là một con mụ quá quắt, Grace ạ, ai mà muốn làm con chị chứ?”
“Chị không phải con mụ quá quắt. Không phải lúc nào cũng thế,” tôi trấn an chị. “Angus yêu chị. Đó là một dấu hiệu còn gì?”
“Em có muốn chị chuyển ra ngoài không? Ở khách sạn hay gì đó.”
“Không, tất nhiên là không rồi. Chị biết quá rõ là chị có thể ở đây bao lâu tùy thích mà,” tôi nói. “Thôi nào. Ôm nhau một cái đi nào.”
Chị vòng tay quanh người tôi và siết thật chặt. “Xin lỗi vì vụ Wyatt nhé,” chị thì thầm.
“Rồi, rồi,” tôi nói, siết chặt đáp lại. Angus, ghen tị vì có tình yêu ở đó nhưng lại không hướng về nó, bắt đầu nhảy lên cằn nhằn.
Margaret lùi lại, buông tôi ra, vớ lấy giấy ăn và lau mắt. “Muốn ăn tối không?” chị đề nghị. “Chị đã làm một ít cho cả hai chị em mình đấy.”
Tôi nhìn vào cái mà chị gọi là bữa tối. “Em cố gắng tránh ăn dây thừng,” tôi nhe răng đáp lại. “Thực ra em không đói. Chắc là em sẽ chỉ ra ngoài ngồi một lát thôi.” Tôi rót cho mình một ly rượu, vỗ vai chị để chị yên tâm là tôi không điên, rồi ra ngoài với con chó trong một đêm tỏa hương ngọt ngào.
Ngồi trong chiếc ghế hóng gió, tôi nhìn quanh sân Angus đang đánh hơi hàng rào phía sau, sục sạo xung quanh như một chú chó bảo vệ cừ khôi thực sự. Tất cả những loại hoa tôi trồng năm ngoái đều lên tuyệt đẹp. Đám mẫu đơn dọc hàng rào hậu nở hoa nặng trĩu, mùi hương ngọt lịm nồng nàn trong đêm. Hương phong thảo phất phơ gần mấy cây thông che chắn cho tôi khỏi số nhà 32 Maple, và phía bên Callahan, diên vĩ mọc thành từng hàng duyên dáng, trắng và chàm, mùi vani và mùi nho. Tử đinh hương chạy dọc sườn phía Đông của ngôi nhà đã tàn, những mùi hương vẫn đáng yêu khôn tả, tạo cảm giác vừa bình yên vừa rộn rã. Âm thanh duy nhất là tiếng nước vỗ từ sông Farmington, tràn đầy cuồn cuộn vào thời gian này trong năm, ào ào cuốn qua những tản đá. Một tiếng còi tàu đâu đó, âm thanh trầm buồn của nó càng nhấn thêm nỗi cô đơn bao phủ lấy tim tôi.
Tại sao con người lại không thể hạnh phúc một mình được nhỉ? Tình yêu bắt trái tim bạn làm con tin. Tôi sẽ bán linh hồn vì Margaret và Natalie, vì bố mẹ tôi, vì Julian, thậm chí vì cả Angus nhỏ bé, anh bạn trung thành của tôi. Bằng chứng là những hành động gần đây của tôi, tôi sẽ làm bất cứ điều gì để tìm ai đó yêu tôi bằng cả trái tim như tôi yêu người đó. Những ngày xa xôi ở bên Andrew dường như đã xảy ra với ai đó khác. Và thậm chí nếu tôi có tìm được ai đó, thì có gì đảm bảo là chuyện đó sẽ kéo dài? Nhìn bố mẹ tôi xem, ngày nào cũng phát điên lên vì người kia. Margaret và Stuart… bảy năm tan thành mây khói. Kiki, Julian và tôi, hoàn toàn lúng túng.
Hình như tôi có khóc một chút. Tôi đưa tay áo lên lau mắt và uống một ngụm rượu kha khá. Tình yêu ngu ngốc Margaret đã đúng. Tình yêu thật đáng chán.
“Grace?”
Đầu tôi ngẩng phắt lên. Callahan O’Shean đang ở bên ngoài, trên mái nhà, nhìn xuống tôi như một vị cứu tinh cổ cồn xanh.
“Chào,” tôi nói.
“Mọi chuyện ổn chứ?” anh hỏi.
“Ô… vâng,” tôi nói. Thật yếu đuối, ngay cả đối với tôi.
“Muốn lên đây không?”
Câu trả lời của tôi làm tôi ngạc nhiên. “Có.”
Tôi để Angus dò xét đám dương xỉ, đi qua cánh cổng nhỏ ngăn cách sân sau với sân trước, và tiến sang ban công sau nhà Callahan. Những tấm ván mới, sắc nét, có mùi sạch sẽ, tỏa sáng lờ mờ trong đêm, và những thanh ngang bằng kim loại của chiếc thang mát lạnh dưới tay tôi. Tôi đi lên, ghé nhìn lên mái nhà nói anh hàng xóm của mình đang đứng.
“Chào,” anh nói, nắm lấy tay để kéo tôi lên.
“Chào,” tôi đáp. Bàn tay anh ấm áp, chắc chắn, và tôi thấy mừng vì chưa bao giờ tôi hâm mộ thang gác cả. Bàn tay đó khiến tôi thấy an toàn. Chỉ một bàn tay, chỉ cần có thế. Tôi buông ra khá là ngần ngừ.
Một tấm chăn tối màu được trải ra trên những tấm lợp gồ ghề. “Chào mừng lên mái nhà,” Callahan nói. “Ngồi đi.”
“Cảm ơn.” Cảnh giác cao độ, tôi ngồi xuống. Cal ngồi cạnh bên tôi. “Anh làm gì ở ngoài này vậy?” tôi hỏi, giữa không gian mát mẻ, tĩnh lặng này giọng nói của tôi có vẻ hơi lớn.
“Tôi chỉ thích nhìn trời thôi,” anh ta trả lời. Nhưng anh ta có đang nhìn trời đâu. Anh ta đang nhìn tôi mà. “Ở trong tù tôi không được làm thế.”
“Bầu trời cũng đẹp đấy chứ,” tôi nói. Khéo quá cơ Grace. Rất là dí dỏm. Tôi có thể cảm thấy hơi ấm của vai anh cạnh vai tôi. “Vậy.”
“Vậy.” Anh thoáng cười, và dạ dày tôi lại từ từ choáng váng cuộn lên. Rồi anh duỗi người ra để nằm trên tấm chăn, chắp tay sau đầu. Sau một giây ngần ngừ, tôi cũng làm theo.
Thật là đẹp. Những ngôi sao đang lấp lánh, bầu trời mịn như nhung và thật là tráng lệ. Bản nhạc đê mê của dòng sông cứ mấy phút lại bị một loài chim đêm nào đó xáo động. Và kia là Callahan O’Shea, hơi ấm vững chai của anh chỉ cách tôi có vài phân.
“Ban nãy cô đang khóc đấy à?” Giọng anh dịu dàng.
“Một chút thôi,” tôi gật đầu.
“Mọi việc ổn chứ?”
Tôi ngừng lại. “Chà, Margaret và Stuart đang trải qua thời kỳ khó khăn. Còn em gái tôi, Nat – nhớ con bé không?” Anh gật đầu. “Mấy tuần nữa con bé sẽ làm đám cưới. Tôi nghĩ chỉ là tôi hơi xúc động một chút thôi.”
“Cô và cái gia đình của cô,” anh bình luận một cách ôn hòa. “Họ chắc phải chẹn cô đến nghẹt thở ấy nhỉ.”
“Hẳn là thế,” tôi rầu rĩ đồng tình.
Con chim ở phía xa lại rền lên. Angus sủa một tiếng đáp lại. “Cô đã kết hôn bao giờ chưa?” Callahan hỏi.
“Chưa,” tôi đáp, nhìn chăm chú lên những ngôi sao mê hồn. “Nhưng hai năm trước tôi đã từng đính hôn.” Chúa ơi. Hai năm trước. Nghe như thể là đã lâu lắm rồi.
“Sao cô lại hủy hôn?”
Tôi đổi tư thế để nhìn anh ta. Thật hay, anh ta cho rằng đó là quyết định của tôi. Hay, nhưng không đúng. “Thực ra tôi không hủy. Là anh ấy. Anh ấy phải lòng một người khác.” Hài hước thật… nói như thể chuyện đó không tệ đến thế. Anh ấy phải lòng một người khác. Chuyện vẫn xảy ra.
Callahan O’Shea quay đầu lại. “Nghe có vẻ như anh ta là một gã ngốc,” anh ta nhẹ nhàng nói.
Ô. Ô. Lại nữa rồi, cái cảm giác cuộn thắt, ấm áp trong lòng. Tôi nuốt nước bọt. “Anh ấy cũng không tệ đến thế,” tôi nói, lại nhìn lên trời. “Anh thì sao. Callahan? Đã bao giờ tiến gần tới bệ thờ chưa?”
“Trước khi vào tù tôi đang gặp gỡ một người. Tôi đoán chuyện đó khá nghiêm túc.” Giọng anh phẳng lặng, bình thản.
“Vì sao hai người chia tay?” tôi nói.
“À, đúng là chúng tôi có gặp khó khăn một chút,” anh trả lời. “Nhưng việc tôi bị bắt mới là giọt nước tràn ly.”
“Anh có nhớ cô ấy không?” tôi không thể ngăn được mình hỏi.
“Một chút,” anh nói. “Thi thoảng. Cứ như là khoảng thời gian hạnh phúc của chúng tôi đã ở một kiếp khác rồi vậy. Tôi gần như không thể nhớ được chúng nữa.”
Câu nói của anh lập lại đúng những suy nghĩ vừa rồi của tôi về Andrew đến nỗi tôi há miệng kinh ngạc. Hẳn là anh đã nhận thấy biểu hiện choáng váng của tôi, bởi vì anh mỉm cười. “Sao nào?” anh hỏi.
“Không có gì. Tôi chỉ… tôi biết cảm giác đó thế nào.” Chúng tôi im lặng một phút nữa, rồi tôi hỏi anh ta một câu khác, một câu hỏi đã từng thắc mắc hơn một lần. “Này, Cal. Tôi đọc được rằng anh nhận tội. Hồi đó anh không muốn ra tòa à?”
Anh ta vẫn nhìn lên trời và không trả lời câu hỏi của tôi mất một giây. “Có quá nhiều bằng chứng, chống lại tôi,” cuối cùng anh ta nói.
Cũng giống như trước đây, tôi có ấn tượng rằng Callahan không nói với tôi tất cả mọi chuyện. Nhưng đó là tội của anh ta, là quá khứ của anh ta, và màn đêm cùng với việc có mặt ở đây, cảm giác thật quá thoải mái để cứ nhấn vào những chuyện như thế. Tôi đang ở ngoài trời, trên mái nhà, với Callahan O’Shea, thế là đủ. Thực ra, là rất đáng yêu.
“Grace này?” Chúa ơi, tôi yêu cách anh ta gọi tên tôi, giọng anh ta trầm và êm ái, với chỉ một chút xíu dấu hiệu của sự dữ dội, như tiếng sấm từ xa trong một đêm hè nóng rực.
Tôi quay đầu lại nhìn anh ta, nhưng anh ta chỉ nhìn sao. “Vâng?”
Anh ta vẫn không nhìn về phía tôi. “Cô đã kết thúc với anh chàng chăn mèo chưa?”
Tim tôi nảy lên, hơi thở đông lại. Trong một khoảnh khắc, tôi tưởng tượng ra mình đang kể với Callahan sự thật về Wyatt Dunn. Tưởng tượng ra cảnh anh ta quay sang nhìn tôi, vẻ mặt hoài nghi, rồi khinh bỉ, đảo mắt và lầm bầm gì đó không hề mang ý ca ngợi về trạng thái cảm xúc của tôi. Tôi chắc như đinh đóng cột không muốn như thế. Callahan O’Shea đang hỏi xem tôi đã xong với Wyatt chưa bởi vì anh ta, phải… không thể chối cãi được… anh ta quan tâm. Tới tôi.
Tôi cắn môi. “Ừm… Wyatt… anh ấy trên lý thuyết thì tuyệt hơn trong đời thực nhiều,” tôi nói, nuốt nước bọt đánh ực. Không hẳn là một lời nói dối. “Thế nên, phải. Chúng tôi quyết định dừng lại.”
“Tốt.” Rồi anh quay sang tôi. Khuôn mặt nghiêm nghị, đôi mắt không thể đoán được dưới ánh sáng mờ ảo của các vì sao. Tim tôi đập chậm lại, và đột nhiên mùi hoa tử đinh hương mới chóng mặt làm sao. Lông mi của Cal thật dài, mắt anh thật đẹp. Và cũng thật là điên rồ khi nhìn anh như thế này, thật gần gũi và còn độc thân, thật ấm áp và vững chãi.
Rất chậm, anh vươn ra để chạm ngón tay vào má tôi. Chỉ một chút âu yếm thôi mà tôi đã phải hít một hơi thật mạnh khi anh chạm hẳn vào mình. Anh đang định hôn tôi. Ôi, Chúa ơi. Tim tôi đập loạn xạ điên cuồng đến nỗi nó chắc đã làm thâm tím cả xương sườn tôi rồi. Cal mỉm cười.
Rồi tiếng Margaret xé tan không gian tĩnh lặng. “Grace? Grace ơi, em ở đâu? Nat gọi điện này!”
“Đến đây!” tôi nói vọng về, đột nhiên loạng quạng. Phát hiện ra cô chủ của mình đang ở trên mái nhà. Angus sủa loạn lên, phá vỡ sự yên ắng thành những mảnh âm thanh ồn ã. “Xin lỗi, Cal. Tôi… Tôi phải đi.”
“Đồ thỏ đế,” anh nói, nhưng mỉm cười.
Tôi tiến thêm một bước lại gần chiếc thang, rồi dừng lại. “Có lẽ lúc nào đó tôi sẽ lại lên đây,” tôi nói.
“Có lẽ thế,” anh đồng ý, ngồi dậy với một động tác nhanh nhẹn, duyên dáng. “Tôi hy vọng cô sẽ giữ lời.”
“Phải đi đây,” tôi thì thào rồi hấp tấp leo xuống thang nhanh nhất có thể. Tiếng cười nhỏ, ám muội của Cal bám theo tôi khi tôi phi vào vườn nhà mình, nơi Angus cuối cùng cũng đã chịu im lặng. Tim tôi nện thình thịch như thể tôi đã chạy được cả dặm.
“Em làm gì ở ngoài đó vậy?” Margaret rít lên khi tôi xộc vào sân trong. “Em ở trên đó với Callahan đấy à?”
“Chào, Margaret,” Cal nói vọng xuống từ trên mái.
“Hai người làm gì trên đó?” chị nói vọng lại.
“Xiếc khỉ(1),” anh trả lời. “Có muốn thử không?”
(1) Nguyên văn: monkey sex – một từ lóng để mô tả việc quan hệ tình dục mạnh bạo kiểu động vật.
“Đừng có dụ dỗ tôi, người nuôi chim nhà tù Akatraz(2),” chị nói, ấn mạnh điện thoại vào tay tôi.
(2) Bird man of Alcatraz: tên một bộ phim kể về một tội nhân trong nhà tù Alcatraz ở vịnh San Francisco.
“A lô?” tôi thở hổn hển.
“Chào, Grace. Em xin lỗi. Em có cắt ngang không?” Giọng Nat nhỏ xíu.
“Ồ, không. Chị chỉ…” tôi hắng giọng. “Chỉ đang nói chuyện với Callahan nhà bên thôi. Chuyện gì vậy?”
“À, em đang băn khoăn không biết chị có rảnh thứ Bảy này không,” con bé nói. “Chị có việc gì phải làm ở trường hay là trận đánh nào không?”
Tôi bước qua cửa trượt vào bếp và liếc lên lịch. “Không. Rảnh cả.”
“Chị có muốn đi mua quần áo với em không?”
Đầu tôi hơi giật ra sau một chút. “Chắc rồi!” nhiệt tình nói. “Mấy giờ?”
“Ừm, có lẽ khoảng ba giờ nhé?” Giọng Nat nghe ngập ngừng đến nỗi tôi dám nói là có vấn đề không ổn.
“Ba giờ ổn đấy,” tôi trả lời.
“Chị có chắc không?”
“Có chứ! Tất nhiên rồi, Bumppo. Sao em nghe có vẻ lạ thế?”
“Margaret nói có thể em nên tha cho chị và đi mà không có chị.”
Margs già tốt bụng. Chị gái tôi đã đúng – sẽ dễ chịu vô cùng nếu chuồn được khỏi cái sự kiện đám cưới này, nhưng tôi phải đi. “Chị muốn đi cùng, Nat,” tôi nói. Nói sao thì nói, một phần trong tôi thực sự muốn. “Gặp em lúc ba giờ nhé.”
“Sao em nuông chiều nó quá vậy?” Margaret cau có khi tôi dập máy. Angus lao vào, suýt nữa làm chị vấp, nhưng chị lờ nó đi. “Hãy bảo nó mở mắt ra và nghĩ tới ai đó khác mà thay đổi thử đi. Con bé còn nằm trên giường bệnh viện nữa đâu, Grace.”
“Em biết thế, Margaret thân mến. Nhưng khốn nỗi đó là váy cưới của con bé. Và em thì đã vượt qua được chuyện với Andrew rồi. Em không quan tâm nếu con bé cưới anh ta, con bé là em gái bọn mình và bọn mình đều nên có mặt ở đó.”
Margaret ngồi bịch xuống một chiếc ghế trong bếp và bế Angus lên, nó liếm cằm chị cuồng nhiệt. “Công chúa Natalie. Chúa cấm con bé nghĩ cho người khác.”
“Con bé không phải như thế! Chúa ơi, Margs, sao chị lại khó tính với nó như vậy?”
Margaret nhún vai. “Có lẽ chị nghĩ con bé cũng thỉnh thoảng phải gặp khó khăn một chút. Nó sống trong một cuộc sống kỳ diệu, Grace. Đáng yêu, xinh đẹp, thông minh. Con bé có được mọi thứ.”
“Không giống chị, nghèo khổ, mồ côi, cục mịch nhỉ?” tôi hỏi.
“Phải, chị thì cá tính không rõ nét và hào quang thì lờ mờ.” Chị thở dài. “Em biết chị đang nói về cái gì đấy, Grace. Thừa nhận đi. Nat vẫn lướt đi trong cuộc đời trên một đám mây trắng bồng bềnh với một cái cầu vồng chết tiệt trên đầu trong khi bọn chim xanh ca hót líu lo xung quanh con bé. Chị, chị đã phải ì ạch lội qua cuộc sống này, còn em… em… đã…” Tiếng chị tắt lịm.
“Em đã làm sao?” tôi hỏi, xù lông lên.
Chị không trả lời trong một giây. “Em đã đụng phải một vài bức tường.”
“Ý chị là Andrew.”
“À, chắc rồi. Nhưng em có nhớ khi nhà mình mới chuyển tới Connecticut, và em bị lạc không?” Chắc chắn là tôi có nhớ. Hồi tôi còn đang hẹn hò với Jack ở nhà hàng Le Cirque. Margaret tiếp. “Và rồi cái năm em sống với bố mẹ sau khi tốt nghiệp, hồi em phải đi làm bồi bàn mất một năm ấy?”
“Em đang dành thời gian nghỉ ngơi để tìm hiểu xem em muốn làm gì,” tôi cấm cảu. “Vả lại, bồi bàn là một kỹ năng sống mà em sẽ không bao giờ mất.”
“Tất nhiên rồi. Như thế chẳng có gì là sai cả. Chỉ là Nat chưa bao giờ phải lăn tăn, chưa bao giờ lạc lối, chưa bao giờ nghi ngờ bản thân, chưa bao giờ tưởng tượng được rằng cuộc sống có thể không hoàn hảo với con bé. Cho tới khi nó gặp Andrew và rồi tìm thấy điều gì đó nó không thể có, cái điều mà cuối cùng em cũng trao cho nó. Vậy nên nếu chị nghĩ con bé có phần ích kỷ thì đó chính là lý do.”
“Em nghĩ là chị ghen tị với nó.” tôi đau đớn nói.
“Đương nhiên là chị ghen tị với nó rồi, đồ ngốc xít.” Margaret trìu mến. Thành thật mà nói, tôi chẳng bao giờ hiểu rõ được Margaret cả. “Mà này,” chị thêm, “em làm gì trên mái nhà với Người Khổng Lồ Nóng Bỏng Nhà Bên đấy?”
Tôi hít một hơi sâu. “Bọn em chỉ ngắm trời thôi. Nói chuyện.”
Margaret nhăn mặt với tôi. “Em có thích anh ta không, Grace?”
Tôi có thể cảm thấy mặt mình ửng lên. “Có hơi. Có. Chắc chắn. Em có.”
“Hừm.” Margs nhìn tôi với nụ cười cướp biển.
“Sao?”
“Chẳng sao cả. Anh chàng là một bước tiến lớn so với Andrew Tẻ Nhạt. Chúa ơi, tưởng tượng ra lúc làm tình với Callahan O’Shea mà xem. Chỉ cái tên của anh ta thôi cũng cho chị một cơn cực khoái.” Chị cười ngặt nghẽo, còn tôi thì cười ngượng nghịu. Margaret đứng dậy và vỗ vai tôi. “Chỉ cần đảm bảo là em không làm thế để chứng tỏ với Andrew rằng ngoài kia có người thèm muốn em, được chứ?”
“Ôi chao. Lãng mạn làm sao, em nghĩ em khóc mất.”
Chị nhe răng cười lần nữa như thể trước đây chị đã từng là cướp biển. “Chà, chị kiệt sức rồi. Chị phải viết một bản tóm tắt rồi đi nằm đây. Ngủ ngon, Gracie.” Chị đưa lại cho tôi con chó bé xíu, nó tựa đầu vào vai tôi và thở dài khoan khoái. “Và, Grace, còn một chuyện nữa phải nói khi chị còn giữ được cái oai của bà chị cả.” Chị thở dài. “Coi này. Chị biết em đang cố gắng để đi tiếp và nhiều việc khác, và chị không trách em. Nhưng dù trông Cal có tuyệt đến đâu khi không mặc áo, anh ta cũng sẽ luôn luôn có một tiền án, và những thứ đó lúc nào cũng bám theo con người ta.”
“Em biết,” tôi thừa nhận. Ava và tôi đều đã lọt vào vòng hai của cuộc phỏng vấn cho chức chủ nhiệm, quá sức ngạc nhiên. Tôi vẫn không hoàn toàn hy vọng, nhưng Margaret đã đúng. Quá khứ của Callahan O’Shea sẽ là vấn đề ở Manning. Có thể không cần phải thế, nhưng sẽ thế.
“Hãy chắc chắn là em biết mình muốn gì, nhóc ạ,” Margs nói. “Chị chỉ nói thế thôi. Chị nghĩ Cal khá là hay ho và em rất có thể nên vui vẻ một chút. Nhưng hãy luôn nhớ rằng em là một giáo viên ở trường trung học, và điều này có thể quan trọng đối với những người tốt ở Manning đấy. Chưa nói đến bố mẹ.”
Tôi không trả lời. Như mọi khi, Margaret đã đúng.
/34
|