Ông Lã đã biết rõ nhưng lại trách Bình Thị rằng: “Nhẽ ra không nên đem cái bọn mất dạy ấy đi theo, còn may là chúng lấy đồ của cha mẹ mình, chứ nếu lấy của nhà khác thì có phải lôi thôi không!”. Lại nói sợ linh cữu để lâu trở ngại, phải mau mang đi. Rồi lại nói đàn bà góa ở đây không tiện, nên dọn đi chỗ khác. Bình Thị bị thúc bách không chịu nổi, đành thuê một gian nhà nhỏ để ở, mướn người khiêng linh cữu về quàn tại đó. Cảnh ngộ thê lương này khỏi cần phải nói.
Bấy giờ ở cạnh có người đàn bà là Trương Thất Tẩu, rất lanh lẹ, thấy Bình Thị cứ khóc lóc thì thường xuyên khuyên giải. Bình Thị cũng thường nhờ bà ta đem cầm hoặc bán cái quần cái áo để lấy tiền tiêu. Được mấy tháng thì hết cả quần áo để cầm cố. May là từ nhỏ đã có học chuyện may vá, mới định đến một nhà giàu nào đó làm việc nữ công để độ nhật. Khi bàn chuyện đó với Trương Thất Tẩu, bà này bảo: “Tôi chẳng tiện nói chứ chỗ nhà giàu chẳng phải là nơi người còn trẻ như chị vào ra. Rồi đến lúc muốn chết cũng chẳng được, mà sống thì phải được tử tế chứ, cuộc đời sau này còn dài, cứ làm mụ may vá thuê đến hết đời sao. Huống hồ lại bị tai tiếng, bị người ta coi rẻ, lại nữa, cái linh cữu này xử lý sao đây? Cũng là việc lớn của chị đấy. Rồi tiền thuê nhà, không lo được mãi đâu”.
Bình Thị nói: “Tôi cũng đã nghĩ đến những điều đó, nhưng mà chẳng biết làm sao”. Bà Trương nói: “Tôi có một cách chị đừng trách tôi nói nhé. Chị xa quê hàng nghìn dặm, một thân một mình, trong tay không có một xu, muốn đưa linh cữu này về quê chỉ là điều hão huyền. Rồi chị thì ăn mặc thiếu thốn, sẽ khó mà giữ gìn. Mà giữ gìn mãi làm gì chứ? Theo ý ngu ngốc của tôi thì nên nhân lúc mình còn trẻ trung đẹp đẽ, tìm lấy một người tốt rồi sống với họ. Được ít tiền cưới, đem mua một miếng đất mà chôn chồng. Còn mình thì cũng có chỗ nương tựa, chẳng lo gì chuyện sống chết nữa”.
Bình Thị nghe nói cũng có lý, trầm ngâm một lúc rồi thở dài nói: “Thôi, thôi, tôi đem bán thân để chôn chồng, người ta cười thì cười!”
Trương Thất Tẩu nói: “Nếu chị quyết định thì hiện nay tôi đã có một nơi, người này cũng chạc tuổi chị, rất đường hoàng, lại giàu có”. Bình Thị nói: “Đã là phú gia thì họ chẳng chịu lấy người đã có một đời chồng rồi”.
Bà Trương nói: “Người này cũng đã bỏ vợ. Anh ta bảo với tôi rằng: Người chưa lấy chồng hay lấy chồng rồi cũng được, chỉ cốt giỏi giang xinh đẹp. Người như chị lo gì không vừa ý?”. Vốn là Trương Thất Tẩu nhận lời tìm giúp Tưởng Hưng Ca một người. Vì vợ trước là Tam Xảo đẹp quá, nên bây giờ chỉ cần người đẹp. Bình Thị nhan sắc không được bằng Tam Xảo song cử chỉ nhanh nhẹn lòng dạ trong sáng, thấy cũng phù hợp.
Hôm sau, bà Trương vào thành nói chuyện với Hưng Ca. Nghe kể rõ con người như vậy Hưng Ca cũng mừng. Bình Thị không đòi lễ vật gì, chỉ cần nhất là mua được một miếng đất để mai táng cho chồng thôi. Bà Trương qua lại mấy lần, thế là hai bên thuận ý hết.
Sau khi xong việc cho chồng, tế lễ đầy đủ, Bình Thị khóc một trận thê thảm rồi cởi bỏ đồ tang. Đến hẹn, nhà họ Tưởng mang quần áo và đồ trang sức tới, lại chuộc chỗ quần áo đã cầm cố về. Rồi đêm động phòng hoa chúc từng bừng náo nhiệt.
Thật là:
Lệ cũ mọi điều quy củ
Tân hôn mỹ mãn ân tình.
Tưởng Hưng Ca thấy Bình Thị cử chỉ đoan trang, lòng rất kính trọng. Một hôm, Bình Thị đang sắp xếp rương quần áo, Hưng Ca bước vào nhìn thấy cái áo trân châu. Chàng ta nhận ra, kinh hãi hỏi: “Áo này ở đâu ra vây?” Bình Thị nói: “Chuyện kỳ quặc lắm”. Bèn kể hết mọi chuyện người chồng trước mặc nó, rồi vợ chồng cãi nhau, rồi giận dỗi xa nhau. Kể rồi lại nói: “Hồi trước gian nan quá, đã mấy lần tính đem cầm đi song thấy lai lịch nó không rõ, sợ có chuyện gì lôi thôi nên không dám để lộ cho người ta biết. Đến bây giờ thiếp cũng không biết nó ở đâu ra nữa.”
Hưng Ca hỏi: “Chồng cũ của mình là Trần Đại Lang còn gọi là Trần Thương, da trắng không để râu, tay trái để móng tay dài, phải không?”. Bình Thị nói: “Đúng rồi”. Hưng Ca lè lưỡi, chắp tay nhìn lên trời nói: “Như vậy là đạo trời rành rành, sợ thật!”. Bình Thị hỏi thế là sao? Hưng Ca nói: “Cái áo trân châu này vốn là báu vật của nhà ta. Chồng của nàng dan díu với vợ ta rồi được áo này làm kỷ niệm. Lúc gặp chồng nàng ở Tô Châu, ta trông thấy chiếc áo, biết rõ chuyện, bèn về bỏ vợ. Ai ngờ chồng nàng lại đi buôn rồi chết. Ta muốn tục huyền có nghe nói nàng là vợ của thương nhân họ Trần nhưng đâu có biết chính là Trần Thương! Chẳng phải là quả báo sao?”. Bình Thị nghe nói nổi da gà. Từ đó càng sống gìn giữ phải đạo.
Có được vợ mới trông nom nhà cửa, một năm sau Hưng Ca lại đi Quảng Đông buôn bán. Rồi xảy ra chuyện: một hôm chàng ta đến huyện Hợp Phố bán hạt châu. Ông khách mua hàng đã già, chọn một hạt châu rõ to rồi lấy giấu đi luôn, hỏi không chịu nhận. Hưng Ca tức quá kéo tay áo lão để moi tìm không ngờ kéo mạnh quá khiến lão ngã lăn quay xuống đất. Vội tới nâng dậy thì lão đã tắt thở rồi. Con cháu và bà con xung quanh kẻ la người khóc. Rồi họ xông lại túm lấy Hưng Ca chẳng cho phân giải gì cả, đánh cho một trận tơi tả, rồi nhốt vào một cái phòng trống, ngay đêm đó viết đơn kiện, đợi sáng ra đưa lên quan huyện.
Quan huyện nhận đơn, song vì hôm đó có công sự nên ra lệnh giam lại, hôm sau sẽ xử.
Quan huyện này là ai vậy? Chính là Tiến sĩ họ Ngô tên Kiệt, người chồng sau của Tam Xảo. Ông này mới đầu trị nhậm huyện Triều Dương. Sau triều đình thấy ông thanh liêm, điều đến làm quan huyện Hợp Phố. Đêm hôm đó, Ngô Kiệt đọc kỹ đơn kiện, Tam Xảo rảnh rỗi ngồi bên cạnh, ngẫu nhiên liếc nhìn thấy tên người bị kiện là La Đức, thương nhân ở huyện Tảo Dương, đây chẳng phải Tưởng Hưng Ca còn ai nữa? Nghĩ đến tình xưa, bất giác lòng thấy đau đớn, nàng khóc mà nói với chồng. “La Đức chính là anh của tiện thiếp, nhận thừa tự cho cậu thiếp họ La, không ngờ đi buôn bán mà phạm tội thế này. Xin quan nhân hãy vì thiếp mà cứu mạng cho anh ta được về quê”. Quan huyện nói: “Để xem xét thế nào đã, nếu quả có tội thì ta cũng khó mà tha cho được”. Tam Xảo nước mắt ròng ròng, quỳ xuống năn nỉ. Quan huyện nói: “Nàng đừng có lo, ta sẽ có cái lẽ của ta”.
Sáng hôm sau thăng đường, Tam Xảo lại kéo tay áo, khóc nói: “Nếu anh thiếp không được cứu thì thiếp sẽ tự tận thôi, không còn thấy nhau nữa”. Quan huyện bắt đầu xử kiện. Đầu tiên hỏi đến vụ này. Chỉ thấy hai anh em Tống Phúc, Tống Thọ vừa khóc vừa thưa: “Bởi tranh giành nhau hạt châu, hắn xông tới đánh, cha chúng tôi ngã xuống chết. Xin quan xử cho”.
Quan huyện hỏi những người làm chứng, người thì nói đánh chết, kẻ thì nói xô ngã.
Tưởng Hưng Ca thưa: “Cha của họ lấy cắp hạt châu của tiểu nhân, tiểu nhân không chịu, tranh cãi với ông ta, ông ta già lão chân yếu, tự trượt chân ngã chết, không can gì đến tiểu nhân cả”.
Quan huyện hỏi Tống Phúc: “Cha ngươi bao nhiêu tuổi rồi?”. Tống Phúc nói: “Dạ sáu mươi bảy”.
Quan huyện nói: “Người già dễ choáng, vị tất đã do đánh chết”. Tống Phúc, Tống Thọ cứ khăng khăng nói là đánh chết. Quan huyện nói: “Có bị thương hay không còn phải kiểm nghiệm. Nếu nói bị đánh chết thì hãy đem thi thể ra để ở vườn sau, hết buổi sẽ khám nghiệm”.
Vốn nhà họ Tống này cũng là thuộc hàng phú quý có mặt mũi. Lão Tống đã từng làm lý trưởng, đời nào con cái chịu để cho mổ xẻ thi thể. Hai người khấu đầu nói: “Cha chúng con chết thế nào, mọi người đều thấy cả, chỉ xin quan lớn đến nhà chúng con chứng nghiệm chứ không nên mổ khám”. Quan nói: “Nếu không thấy được dấu vết thương tích thì hung thủ đời nào chịu nhận tội?”.
Hai anh em nhà kia cứ xin mãi. Quan huyện nổi giận nói: “Các ngươi không chịu cho khám nghiệm thì ta không hỏi tội được”. Bọn chúng rập đầu xin xử lý sáng suốt cho. Quan phán: “Người gần 70 tuổi chết cũng là đến số, nếu như không bị đánh chết mà lại vu tội cho người bình thường thì người chết lại mắc thêm tội. Còn như các ngươi, làm con mà đã trông được cha đến nhiều tuổi thế rồi, nay lại khoác cho ông ấy thêm một điều ác để chết không yên thì trong lòng các ngươi có nỡ được không? Còn tên La Đức, chuyện đánh chết người là giả song xô người ngã là thật, nếu ta không phạt nặng hắn thì các ngươi cũng không hả được giận. Vậy bây giờ ta bắt hắn mặc tang phục cùng hành lễ với các ngươi, tất cả tiền chi phí cho việc tang ma, hắn phải chịu hết. Các ngươi có đồng ý không?”.
Hai anh em nói: “Ngài xử như vậy, chúng con đâu dám không tuân theo”.
Hưng Ca thấy quan không dùng hình phạt, phân xử rõ ràng, vô cùng mừng rỡ. Thế là cả hai bên nguyên cáo bị cáo đều rập đầu tạ ơn. Thật là: “Công đường tạo nghiệp dễ dàng thôi. Muốn tích âm công phải cứu người. Mắt thấy đương triều Ngô Đại doãn. Giải oan xá tội, thảy đều vui”. Lại nói Tam Xảo từ lúc chồng thăng đường xử án, lòng cứ nóng như lửa đốt. Vừa nghe nói buổi xử kết thúc là đón hỏi ngay. Quan huyện nói: “Ta xử như vậy, như vậy. Vì nàng nên không làm khổ gì anh ta”.
Tam Xảo muôn ngàn tạ ơn. Rồi nói: “Thiếp với anh trai xa nhau đã lâu, muốn được gặp mặt để hỏi tin tức cha mẹ. Xin quan nhân hãy tìm cách cho anh em thiếp tương kiến, ơn này thật lớn vô cùng”. Quan huyện nói: “Việc này dễ thôi”. Thử nghĩ xem, Tam Xảo bị Tưởng Hưng Ca bỏ, ơn dứt nghĩa tuyệt, thế mà sao tình cảm lại như thế? Vốn là vợ chồng họ rất thương yêu nhau, bởi Tam Xảo làm điều sai trái nên Hưng Ca bất đắc dĩ mà phải bỏ chứ lòng vẫn không nỡ, vì thế hôm nàng cải giá chàng đã đem mười sáu cái rương và hộp cho lại hết. Chỉ một việc đó đã khiến Tam Xảo vô cùng cảm động. Nay nàng được phú quý mà Hưng Ca lại gặp nạn hỏi không cứu sao được? Đó chính là tri ân báo ân vậy.
Lại nói Tưởng Hưng Ca tuân theo lệnh quan, thực hiện đầy đủ mọi điều, anh em nhà họ Tống thôi không nói năng gì cả. Tang ma cho ông già xong xuôi, sai nhân lại dẫn Hưng Ca về huyện đường báo cáo. Quan huyện gọi vào tư dinh, bảo ngồi, rồi nói: “Ông anh bị chuyện kiện cáo này, nếu không có lệnh muội nhiều lần xin cho thì bản chức có thể đắc tội rồi”. Hưng Ca không hiểu ra sao nên chẳng nói gì được. Một lát, quan huyện mời vào thư phòng rồi gọi tiểu phu nhân ra gặp mặt. Thử nghĩ mà xem, cuộc hội ngộ bất ngờ này có khác gì trong mơ? Hai người đó chẳng vái chào nhau, cũng chẳng nói năng gì, ôm chầm lấy nhau òa khóc, khóc thê thảm đến nỗi quan huyện đứng đó cũng động lòng nói: “Hai người hãy bớt đau thương đi, ta thấy tình cảm của các người không giống anh em, hãy nói rõ sự thật cho ta nghe rồi ta sẽ xử cho”.
Hai người vẫn khóc mãi không ai chịu nói. Bị quan gạn hỏi mãi, cuối cùng Tam Xảo mới đành quỳ xuống thưa: “Tiện thiếp có tội đáng chết ngàn lần, người này chính là chồng trước của thiếp”. Tưởng Hưng Ca thấy không thể dấu nữa cũng quỳ xuống kể hết sự tình từ chỗ hai người yêu thương nhau rồi Hưng Ca bỏ vợ, rồi vợ tái giá như thế nào nói cho quan huyện nghe. Nói xong hai người lại ôm nhau khóc đến nỗi tri huyện Ngô cũng nước mắt ròng ròng mà nói: “Hai người yêu thương nhau thế, làm sao ta nỡ chia cắt các ngươi. Cũng may là chưa có con cái gì nên ta ra lệnh cho hai người về lại với nhau”.
Hai người rập đầu bái tạ. Quan bèn sai đem một kiệu nhỏ đưa Tam Xảo ra khỏi nha môn, lại gọi phu khiêng mười sáu cái rương và hộp đi theo, bảo Hưng Ca nhận cả lấy. Rồi sai một viên lại hộ tống về quê. Thật đúng là:
Châu về Hợp Phố càng thêm đẹp
Kiếm gặp Phong Thành sẽ rất linh
Kính phục Ngô công ân đức hậu
Tham tài, hiếu sắc xử công minh.
Ông quan họ Ngô này sau được thăng vào bộ Lại ở Bắc Kinh, rất được sủng ái, rồi sinh được liên tiếp ba người con trai, đều học hành đỗ đạt, người ta bảo đó là ân đức được báo đền.
Còn Tưởng Hưng Ca thì đưa Tam Xảo về, gặp gỡ với Bình Thị. Kể về hôn nhân thì Tam Xảo cưới trước, song lại đã bị bỏ. Còn Bình Thị thì cũng mai mối cưới xin chính thức, Bình Thị lại lớn hơn một tuổi, vậy nên để Bình Thị là chính phòng, còn Vương Thị là thứ phòng, hai người gọi nhau là chị em. Từ đó, một ông chồng hai bà vợ, sống đầm ấm với nhau đến già. Người sau có thơ rằng:
Vợ chồng ân ái trước sau
Thê thành ra thiếp vẫn câu vẹn tuyền
Dữ lành, nhân quả nhãn tiền
Trời xanh ngay đó, lọ phiền cầu ai.
Bấy giờ ở cạnh có người đàn bà là Trương Thất Tẩu, rất lanh lẹ, thấy Bình Thị cứ khóc lóc thì thường xuyên khuyên giải. Bình Thị cũng thường nhờ bà ta đem cầm hoặc bán cái quần cái áo để lấy tiền tiêu. Được mấy tháng thì hết cả quần áo để cầm cố. May là từ nhỏ đã có học chuyện may vá, mới định đến một nhà giàu nào đó làm việc nữ công để độ nhật. Khi bàn chuyện đó với Trương Thất Tẩu, bà này bảo: “Tôi chẳng tiện nói chứ chỗ nhà giàu chẳng phải là nơi người còn trẻ như chị vào ra. Rồi đến lúc muốn chết cũng chẳng được, mà sống thì phải được tử tế chứ, cuộc đời sau này còn dài, cứ làm mụ may vá thuê đến hết đời sao. Huống hồ lại bị tai tiếng, bị người ta coi rẻ, lại nữa, cái linh cữu này xử lý sao đây? Cũng là việc lớn của chị đấy. Rồi tiền thuê nhà, không lo được mãi đâu”.
Bình Thị nói: “Tôi cũng đã nghĩ đến những điều đó, nhưng mà chẳng biết làm sao”. Bà Trương nói: “Tôi có một cách chị đừng trách tôi nói nhé. Chị xa quê hàng nghìn dặm, một thân một mình, trong tay không có một xu, muốn đưa linh cữu này về quê chỉ là điều hão huyền. Rồi chị thì ăn mặc thiếu thốn, sẽ khó mà giữ gìn. Mà giữ gìn mãi làm gì chứ? Theo ý ngu ngốc của tôi thì nên nhân lúc mình còn trẻ trung đẹp đẽ, tìm lấy một người tốt rồi sống với họ. Được ít tiền cưới, đem mua một miếng đất mà chôn chồng. Còn mình thì cũng có chỗ nương tựa, chẳng lo gì chuyện sống chết nữa”.
Bình Thị nghe nói cũng có lý, trầm ngâm một lúc rồi thở dài nói: “Thôi, thôi, tôi đem bán thân để chôn chồng, người ta cười thì cười!”
Trương Thất Tẩu nói: “Nếu chị quyết định thì hiện nay tôi đã có một nơi, người này cũng chạc tuổi chị, rất đường hoàng, lại giàu có”. Bình Thị nói: “Đã là phú gia thì họ chẳng chịu lấy người đã có một đời chồng rồi”.
Bà Trương nói: “Người này cũng đã bỏ vợ. Anh ta bảo với tôi rằng: Người chưa lấy chồng hay lấy chồng rồi cũng được, chỉ cốt giỏi giang xinh đẹp. Người như chị lo gì không vừa ý?”. Vốn là Trương Thất Tẩu nhận lời tìm giúp Tưởng Hưng Ca một người. Vì vợ trước là Tam Xảo đẹp quá, nên bây giờ chỉ cần người đẹp. Bình Thị nhan sắc không được bằng Tam Xảo song cử chỉ nhanh nhẹn lòng dạ trong sáng, thấy cũng phù hợp.
Hôm sau, bà Trương vào thành nói chuyện với Hưng Ca. Nghe kể rõ con người như vậy Hưng Ca cũng mừng. Bình Thị không đòi lễ vật gì, chỉ cần nhất là mua được một miếng đất để mai táng cho chồng thôi. Bà Trương qua lại mấy lần, thế là hai bên thuận ý hết.
Sau khi xong việc cho chồng, tế lễ đầy đủ, Bình Thị khóc một trận thê thảm rồi cởi bỏ đồ tang. Đến hẹn, nhà họ Tưởng mang quần áo và đồ trang sức tới, lại chuộc chỗ quần áo đã cầm cố về. Rồi đêm động phòng hoa chúc từng bừng náo nhiệt.
Thật là:
Lệ cũ mọi điều quy củ
Tân hôn mỹ mãn ân tình.
Tưởng Hưng Ca thấy Bình Thị cử chỉ đoan trang, lòng rất kính trọng. Một hôm, Bình Thị đang sắp xếp rương quần áo, Hưng Ca bước vào nhìn thấy cái áo trân châu. Chàng ta nhận ra, kinh hãi hỏi: “Áo này ở đâu ra vây?” Bình Thị nói: “Chuyện kỳ quặc lắm”. Bèn kể hết mọi chuyện người chồng trước mặc nó, rồi vợ chồng cãi nhau, rồi giận dỗi xa nhau. Kể rồi lại nói: “Hồi trước gian nan quá, đã mấy lần tính đem cầm đi song thấy lai lịch nó không rõ, sợ có chuyện gì lôi thôi nên không dám để lộ cho người ta biết. Đến bây giờ thiếp cũng không biết nó ở đâu ra nữa.”
Hưng Ca hỏi: “Chồng cũ của mình là Trần Đại Lang còn gọi là Trần Thương, da trắng không để râu, tay trái để móng tay dài, phải không?”. Bình Thị nói: “Đúng rồi”. Hưng Ca lè lưỡi, chắp tay nhìn lên trời nói: “Như vậy là đạo trời rành rành, sợ thật!”. Bình Thị hỏi thế là sao? Hưng Ca nói: “Cái áo trân châu này vốn là báu vật của nhà ta. Chồng của nàng dan díu với vợ ta rồi được áo này làm kỷ niệm. Lúc gặp chồng nàng ở Tô Châu, ta trông thấy chiếc áo, biết rõ chuyện, bèn về bỏ vợ. Ai ngờ chồng nàng lại đi buôn rồi chết. Ta muốn tục huyền có nghe nói nàng là vợ của thương nhân họ Trần nhưng đâu có biết chính là Trần Thương! Chẳng phải là quả báo sao?”. Bình Thị nghe nói nổi da gà. Từ đó càng sống gìn giữ phải đạo.
Có được vợ mới trông nom nhà cửa, một năm sau Hưng Ca lại đi Quảng Đông buôn bán. Rồi xảy ra chuyện: một hôm chàng ta đến huyện Hợp Phố bán hạt châu. Ông khách mua hàng đã già, chọn một hạt châu rõ to rồi lấy giấu đi luôn, hỏi không chịu nhận. Hưng Ca tức quá kéo tay áo lão để moi tìm không ngờ kéo mạnh quá khiến lão ngã lăn quay xuống đất. Vội tới nâng dậy thì lão đã tắt thở rồi. Con cháu và bà con xung quanh kẻ la người khóc. Rồi họ xông lại túm lấy Hưng Ca chẳng cho phân giải gì cả, đánh cho một trận tơi tả, rồi nhốt vào một cái phòng trống, ngay đêm đó viết đơn kiện, đợi sáng ra đưa lên quan huyện.
Quan huyện nhận đơn, song vì hôm đó có công sự nên ra lệnh giam lại, hôm sau sẽ xử.
Quan huyện này là ai vậy? Chính là Tiến sĩ họ Ngô tên Kiệt, người chồng sau của Tam Xảo. Ông này mới đầu trị nhậm huyện Triều Dương. Sau triều đình thấy ông thanh liêm, điều đến làm quan huyện Hợp Phố. Đêm hôm đó, Ngô Kiệt đọc kỹ đơn kiện, Tam Xảo rảnh rỗi ngồi bên cạnh, ngẫu nhiên liếc nhìn thấy tên người bị kiện là La Đức, thương nhân ở huyện Tảo Dương, đây chẳng phải Tưởng Hưng Ca còn ai nữa? Nghĩ đến tình xưa, bất giác lòng thấy đau đớn, nàng khóc mà nói với chồng. “La Đức chính là anh của tiện thiếp, nhận thừa tự cho cậu thiếp họ La, không ngờ đi buôn bán mà phạm tội thế này. Xin quan nhân hãy vì thiếp mà cứu mạng cho anh ta được về quê”. Quan huyện nói: “Để xem xét thế nào đã, nếu quả có tội thì ta cũng khó mà tha cho được”. Tam Xảo nước mắt ròng ròng, quỳ xuống năn nỉ. Quan huyện nói: “Nàng đừng có lo, ta sẽ có cái lẽ của ta”.
Sáng hôm sau thăng đường, Tam Xảo lại kéo tay áo, khóc nói: “Nếu anh thiếp không được cứu thì thiếp sẽ tự tận thôi, không còn thấy nhau nữa”. Quan huyện bắt đầu xử kiện. Đầu tiên hỏi đến vụ này. Chỉ thấy hai anh em Tống Phúc, Tống Thọ vừa khóc vừa thưa: “Bởi tranh giành nhau hạt châu, hắn xông tới đánh, cha chúng tôi ngã xuống chết. Xin quan xử cho”.
Quan huyện hỏi những người làm chứng, người thì nói đánh chết, kẻ thì nói xô ngã.
Tưởng Hưng Ca thưa: “Cha của họ lấy cắp hạt châu của tiểu nhân, tiểu nhân không chịu, tranh cãi với ông ta, ông ta già lão chân yếu, tự trượt chân ngã chết, không can gì đến tiểu nhân cả”.
Quan huyện hỏi Tống Phúc: “Cha ngươi bao nhiêu tuổi rồi?”. Tống Phúc nói: “Dạ sáu mươi bảy”.
Quan huyện nói: “Người già dễ choáng, vị tất đã do đánh chết”. Tống Phúc, Tống Thọ cứ khăng khăng nói là đánh chết. Quan huyện nói: “Có bị thương hay không còn phải kiểm nghiệm. Nếu nói bị đánh chết thì hãy đem thi thể ra để ở vườn sau, hết buổi sẽ khám nghiệm”.
Vốn nhà họ Tống này cũng là thuộc hàng phú quý có mặt mũi. Lão Tống đã từng làm lý trưởng, đời nào con cái chịu để cho mổ xẻ thi thể. Hai người khấu đầu nói: “Cha chúng con chết thế nào, mọi người đều thấy cả, chỉ xin quan lớn đến nhà chúng con chứng nghiệm chứ không nên mổ khám”. Quan nói: “Nếu không thấy được dấu vết thương tích thì hung thủ đời nào chịu nhận tội?”.
Hai anh em nhà kia cứ xin mãi. Quan huyện nổi giận nói: “Các ngươi không chịu cho khám nghiệm thì ta không hỏi tội được”. Bọn chúng rập đầu xin xử lý sáng suốt cho. Quan phán: “Người gần 70 tuổi chết cũng là đến số, nếu như không bị đánh chết mà lại vu tội cho người bình thường thì người chết lại mắc thêm tội. Còn như các ngươi, làm con mà đã trông được cha đến nhiều tuổi thế rồi, nay lại khoác cho ông ấy thêm một điều ác để chết không yên thì trong lòng các ngươi có nỡ được không? Còn tên La Đức, chuyện đánh chết người là giả song xô người ngã là thật, nếu ta không phạt nặng hắn thì các ngươi cũng không hả được giận. Vậy bây giờ ta bắt hắn mặc tang phục cùng hành lễ với các ngươi, tất cả tiền chi phí cho việc tang ma, hắn phải chịu hết. Các ngươi có đồng ý không?”.
Hai anh em nói: “Ngài xử như vậy, chúng con đâu dám không tuân theo”.
Hưng Ca thấy quan không dùng hình phạt, phân xử rõ ràng, vô cùng mừng rỡ. Thế là cả hai bên nguyên cáo bị cáo đều rập đầu tạ ơn. Thật là: “Công đường tạo nghiệp dễ dàng thôi. Muốn tích âm công phải cứu người. Mắt thấy đương triều Ngô Đại doãn. Giải oan xá tội, thảy đều vui”. Lại nói Tam Xảo từ lúc chồng thăng đường xử án, lòng cứ nóng như lửa đốt. Vừa nghe nói buổi xử kết thúc là đón hỏi ngay. Quan huyện nói: “Ta xử như vậy, như vậy. Vì nàng nên không làm khổ gì anh ta”.
Tam Xảo muôn ngàn tạ ơn. Rồi nói: “Thiếp với anh trai xa nhau đã lâu, muốn được gặp mặt để hỏi tin tức cha mẹ. Xin quan nhân hãy tìm cách cho anh em thiếp tương kiến, ơn này thật lớn vô cùng”. Quan huyện nói: “Việc này dễ thôi”. Thử nghĩ xem, Tam Xảo bị Tưởng Hưng Ca bỏ, ơn dứt nghĩa tuyệt, thế mà sao tình cảm lại như thế? Vốn là vợ chồng họ rất thương yêu nhau, bởi Tam Xảo làm điều sai trái nên Hưng Ca bất đắc dĩ mà phải bỏ chứ lòng vẫn không nỡ, vì thế hôm nàng cải giá chàng đã đem mười sáu cái rương và hộp cho lại hết. Chỉ một việc đó đã khiến Tam Xảo vô cùng cảm động. Nay nàng được phú quý mà Hưng Ca lại gặp nạn hỏi không cứu sao được? Đó chính là tri ân báo ân vậy.
Lại nói Tưởng Hưng Ca tuân theo lệnh quan, thực hiện đầy đủ mọi điều, anh em nhà họ Tống thôi không nói năng gì cả. Tang ma cho ông già xong xuôi, sai nhân lại dẫn Hưng Ca về huyện đường báo cáo. Quan huyện gọi vào tư dinh, bảo ngồi, rồi nói: “Ông anh bị chuyện kiện cáo này, nếu không có lệnh muội nhiều lần xin cho thì bản chức có thể đắc tội rồi”. Hưng Ca không hiểu ra sao nên chẳng nói gì được. Một lát, quan huyện mời vào thư phòng rồi gọi tiểu phu nhân ra gặp mặt. Thử nghĩ mà xem, cuộc hội ngộ bất ngờ này có khác gì trong mơ? Hai người đó chẳng vái chào nhau, cũng chẳng nói năng gì, ôm chầm lấy nhau òa khóc, khóc thê thảm đến nỗi quan huyện đứng đó cũng động lòng nói: “Hai người hãy bớt đau thương đi, ta thấy tình cảm của các người không giống anh em, hãy nói rõ sự thật cho ta nghe rồi ta sẽ xử cho”.
Hai người vẫn khóc mãi không ai chịu nói. Bị quan gạn hỏi mãi, cuối cùng Tam Xảo mới đành quỳ xuống thưa: “Tiện thiếp có tội đáng chết ngàn lần, người này chính là chồng trước của thiếp”. Tưởng Hưng Ca thấy không thể dấu nữa cũng quỳ xuống kể hết sự tình từ chỗ hai người yêu thương nhau rồi Hưng Ca bỏ vợ, rồi vợ tái giá như thế nào nói cho quan huyện nghe. Nói xong hai người lại ôm nhau khóc đến nỗi tri huyện Ngô cũng nước mắt ròng ròng mà nói: “Hai người yêu thương nhau thế, làm sao ta nỡ chia cắt các ngươi. Cũng may là chưa có con cái gì nên ta ra lệnh cho hai người về lại với nhau”.
Hai người rập đầu bái tạ. Quan bèn sai đem một kiệu nhỏ đưa Tam Xảo ra khỏi nha môn, lại gọi phu khiêng mười sáu cái rương và hộp đi theo, bảo Hưng Ca nhận cả lấy. Rồi sai một viên lại hộ tống về quê. Thật đúng là:
Châu về Hợp Phố càng thêm đẹp
Kiếm gặp Phong Thành sẽ rất linh
Kính phục Ngô công ân đức hậu
Tham tài, hiếu sắc xử công minh.
Ông quan họ Ngô này sau được thăng vào bộ Lại ở Bắc Kinh, rất được sủng ái, rồi sinh được liên tiếp ba người con trai, đều học hành đỗ đạt, người ta bảo đó là ân đức được báo đền.
Còn Tưởng Hưng Ca thì đưa Tam Xảo về, gặp gỡ với Bình Thị. Kể về hôn nhân thì Tam Xảo cưới trước, song lại đã bị bỏ. Còn Bình Thị thì cũng mai mối cưới xin chính thức, Bình Thị lại lớn hơn một tuổi, vậy nên để Bình Thị là chính phòng, còn Vương Thị là thứ phòng, hai người gọi nhau là chị em. Từ đó, một ông chồng hai bà vợ, sống đầm ấm với nhau đến già. Người sau có thơ rằng:
Vợ chồng ân ái trước sau
Thê thành ra thiếp vẫn câu vẹn tuyền
Dữ lành, nhân quả nhãn tiền
Trời xanh ngay đó, lọ phiền cầu ai.
/21
|