3.
Tối hôm đó, mười giờ tối ông mới đến bệnh viện, tôi kiểm tra đơn giản cho ông, đề nghị ông ngày hôm sau hãy làm hóa trị.
Không ngờ, mười hai giờ đêm ngay tối hôm ấy, bệnh của Cận tiên sinh trở nên xấu đi và ông rơi vào hôn mê. Chủ nhiệm Dương phải nhanh chóng cấp cứu mười tiếng đồng hồ mới có thể kéo Cận tiên sinh từ cõi chết trở về. Qua kiểm tra, tế bào ung thư đã di căn đến tim, chữa trị thế nào cũng không có ý nghĩa gì nữa, ông phải ở trong phòng theo dõi dành cho bệnh nhân mắc bệnh nặng và được quan sát tỉ mỉ.
Cho dù như vậy thì hằng đêm, ánh đèn trong phòng chăm sóc đặc biệt ấy vẫn sáng.
Tôi bước vào phòng, thấy Cận tiên sinh mệt mỏi dựa vào thành giường, trên đầu gối đặt chiếc laptop, một tay ông giữ chiếc laptop, một tay chống vào gối, cố gắng mở to mắt nhìn chăm chú vào đơn xin vốn đầu tư hạng mục trên màn hình máy tính.
Tôi lo lắng bước đến nhắc nhở ông: “Chú Cận, chú nên nghỉ ngơi thôi.”
Ông mỉm cười với tôi: “Rất nhanh thôi là tôi có thể nghỉ ngơi rồi.”
“…” Nhìn nụ cười của ông, tôi tự nhiên không cầm được nước mắt, bước nhanh ra khỏi phòng chăm sóc đặc biệt với đôi mắt ướt nhòe.
Tôi không muốn khuyên nhủ ông nữa, thời khắc cuối cùng của cuộc sống này, ông có quyền lựa chọn cách sống mà ông muốn.
Tôi về văn phòng rót một cốc nước nóng, bước đến khu cầu thang. Bà Cận quả nhiên đang ngồi đờ đẫn ở đó.
Tôi đưa cốc nước nóng cho bà, nói: “Cô Trần à, cô cùng mệt rồi, nên ngủ một chút đi.”
Bà lắc đầu, nhìn tôi với đôi mắt tuyệt vọng. “Bác sĩ Bạc à, ông ấy không chống trụ được mấy ngày nữa, tôi muốn bảo con trai đến gặp mặt ông ấy lần cuối, nhưng ông ấy không đồng ý. Con trai tôi đang làm việc ở Hồng Kông, công việc rất bận rộn…”
Tôi biết bà luôn tôn trọng Cận tiên sinh, tất cả mọi chuyện bà đều muốn làm theo mong muốn của ông ấy nên nhất thời tôi không biết trả lời thế nào.
Cốt nhục chia ly thường sẽ có cảm giác đau đớn như bị rút gân róc xương, nếu như ngay cả lời tạm biệt cuối cùng cũng không kịp nói mà người đã ra đi, thì người sống sẽ cảm thấy tiếc nuối đến nhường nào?
Bà thấy tôi trầm mặc không nói thì tiếp tục hỏi: “Thứ lỗi cho tôi mạo muội nhé, tôi nghe người ta nói, bác sĩ vốn đi du học ở bên Nhật, vì bố bị bệnh nên đã nghĩ học về chăm sóc ông ấy, có phải không?”
Tôi hiểu ý của bà nên đáp: “Vâng. Bố cháu ban đầu cũng sợ cháu lo lắng, luôn giấu giếm cháu, may mà có một người bạn nói cho cháu biết, cháu nghĩ, cả đời này luôn biết ơn người bạn ấy.”
Bà Cận nói: “Cảm ơn!”
“Không có gì ạ, muộn lắm rồi, cô mau đi nghỉ ngơi đi.”
Tiễn bà Cận về phòng bệnh, tôi mới trở về phòng yên tâm ngủ một giấc.
Hơn bốn giờ sáng, tôi vừa ngủ chưa được bao lâu thì bị tiếng đập cửa ầm ầm làm tỉnh giấc.
“Bác sĩ Bạc, cứu mạng, cứu mạng!” Tiếng cầu cứu thê lương và tuyệt vọng khiến tôi lập tức tỉnh ngủ.
Tôi bước xuống giường với tốc độ nhanh nhất, chạy hai bước đến trước cửa phòng và mở cửa.
Bà Cận bổ nhào đến trước mặt tôi, hai tay túm chặt lấy vạt áo của tôi, giọng run rẩy: “Ông ấy lại hôn mê rồi… cứu ông ấy… hãy cứu ông ấy.”
Tôi vừa kêu y tá chuẩn bị máy móc và thuốc men, vừa chạy đến phòng chăm sóc đặc biệt.
Bà Cận hoảng hốt, sợ hãy hỏi tôi: “Ông ấy còn có thể tỉnh lại, đúng không? Tôi đã nói với con trai rồi, nó sẽ về ngay trong ngày hôm nay… Liệu nó còn có thể nhìn mặt ông ấy lần cuối không?”
Đây là lần thứ ba hôn mê của Cận tiên sinh rồi, cách lần hôn mê trước một tháng. Tình trạng sức khỏe của Cận tiên sinh đã bị tổn thương nghiêm trọng, hầu như tất cả chức năng trong cơ thể đều đã bị tết bào ung thư xâm nhập, dựa vào kinh nghiệm thường thấy để phán đoán thì bắt đầu từ khi xuất hiện triệu chứng hôn mê, người bệnh chỉ sống được nhiều nhất khoảng một tháng.
Đối diện với sự mong mỏi của bà Cận, tôi chỉ biết đáp: “Cháu sẽ cố gắng! Nhưng cô cũng cần chuẩn bị tốt tâm lý, khả năng chú ấy tỉnh lại là rất ít.”
Bà không nói gì, chỉ nắm lấy tay của Cận tiên sinh, rơi vào trạng thái tuyệt vọng đau đớn cùng cực, mắt đã không còn giọt lệ nào, miệng cũng không thể thốt nên lời nào nữa.
Tôi đã cố gắng hết sức, thuốc có thể dùng thì đã dùng rồi, các phương pháp để cấp cứu đều thử rồi, nhưng cuối cùng, Cận tiên sinh đã không tỉnh lại.
Con trai của ông ấy cuối cùng cũng từ Hồng Kông trở về, cậu ấy quỳ bên giường bệnh, nước mắt tuôn rơi, nói: “Bố, mấy ngày trước, chẳng phải bố bảo đến Hồng Kông sống sao, bố nói muốn sống một cuộc sống nhàn nhã mà… Hóa ra đều là lừa gạt con.”
Cậu ấy nói: “Bố, tại sao bố không nói cho con biết? Năm năm trời, tại sao bố bị bệnh năm năm mà không nói cho con biết?”
Cậu ấy nói: “Bố, bố nên nói sớm cho con biết mới phải… ít nhất con cũng được ở bên cạnh bố nhiều hơn, nói chuyện với bố nhiều hơn…”
Cậu ấy nói: “Bố, bố tỉnh lại đi, bố nói với con một câu thôi cũng được, hay nhìn con một cái thôi cũng được…”
Cậu ấy khóc nghẹn ngào, sau một hồi lẩm bẩm tự nói một mình, cậu ấy lại gào khóc thảm thiết, nhưng đáng tiếc là đều không có tác dụng, cậu ấy không thể lay gọi người bố đang hấp hối, không thể an ủi được người mẹ đang đau đớn tuyệt vọng, càng không thể giải tỏa được sự kìm nén và nỗi đau trong tim.
Ngày hôm sau, Cận tiên sinh đã trút hơi thở cuối cùng trong cơn hôn mê.
Cuối cùng, ông để lại cho nhân thế là một lá đơn xin vốn đầu tư hạng mục, còn đối với người thân, con cái, bạn bè thì không để lại chữ nào.
4.
Hai ngày sau, tôi tham dự tang lễ của Cận tiên sinh.
Tôi từng cho rằng cho đến lúc chết cũng muốn ở một mình như Cận tiên sinh, tính tình chắc hẳn là rất cô độc, lầm lì, vì đến giờ phút hấp hối mà cũng không có một ai đến thăm ông.
Cho đến khi tham dự tang lễ của ông ngày hôm đó, nhìn thấy cảnh hàng nghìn người đứng trước linh đường của ông, vòng hoa xếp chật kín xung quanh, tôi mới hiểu, ông biết có quá nhiều người quan tâm đến ông, để ý đến ông, kính trọng ông, thế nên ông mới luôn giấu giếm bệnh tình của mình. Ông không muốn nỗi đau khổ của mình trở thành nỗi buồn của người khác, không muốn làm phiền đến người khác bởi bệnh tật của mình, càng không muốn những người quan tâm, để ý đến ông khiến ông phải bỏ qua những “cuộc họp quan trọng”.
Sự giấu giếm này khiến ông cố chấp sống hết quãng đời còn lại, tuy nhiên, sự ra đi như vậy đối với những người đang đứng trước linh đường của ông đây thật qua tán nhẫn.
Trong tang lễ, tôi đứng giữa những người mà mình không quen, lặng lẽ lắng nghe bài điếu văn về ông, đó là bài điếu văn xúc động nhất mà tôi từng nghe.
“Hôm nay, với lòng xót thương vô hạn, chúng ta đến đây tổ chức lễ tiễn đưa đồng chí Cận Lịch, giảng viên hướng dẫn luận án tiến sĩ, nhà khoa học vật liệu, người đã phấn đấu không biết mệt mỏi trong suốt cuộc đời mình, người chiến sĩ trên mặt trận vật liệu thuộc kim tiên tiến của Học viện Khoa học Trung Quốc. Đầu tiên, cho phép tôi thay mặt các đồng nghiệp, bạn bè thân bằng cố hữu có mặt ngày hôm nay xin bày tỏ lòng tiếc thương vô hạn với sự ra đi của đồng chí Cận Lịch, đồng thời gửi tới gia quyến của đồng chí lời thăm hỏi và chia buồn sâu sắc.
Ba mươi năm qua, trong công tác nghiên cứu khoa học, đồng chí Cận Lịch luôn cẩn trọng, tỉ mỉ, hoàn thành nhiều nhiệm vụ khó khăn mà nhà nước giao cho, âm thầm cống hiến cả tuổi trẻ và sinh mệnh của mình. Mấy năm gần đây, đồng chí đã biết mình mắc trọng bệnh, nhưng lại càng phấn đấu làm việc. Bạn bè thân thiết thấy đồng chí ngày càng gầy ốm, khuyên đồng chí nên giảm lượng công việc, chú ý nghỉ ngơi, nhưng đồng chí nói: “Chỉ cần được làm việc là tôi không cảm thấy mệt chút nào.”
Có một dạo, để tăng tiến độ nghiên cứu hạng mục công trình, đồng chí Cận Lịch liên tục phải đi công tác, vợ của đồng chí biết tình trạng sức khỏe của đồng chí, nhưng khuyên thế nào cũng không được, đành hỏi: “Trong nhóm đề tài của ông có hơn chục thanh niên trẻ, những công việc đó ông không làm không được sao?” Và câu trả lời của đồng chí Cận Lịch làm cho chúng ta xác động. Đồng chí đã nói: “Không phải công việc cần tôi, mà là tôi cần công việc.” Cho đến bây giờ, chúng ta vẫn khó có thể hiểu được, đồng chí đã quên bản thân như thế nào, yêu công việc như thế nào mới làm được như thế!
Để nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, trong suốt thời gian lâm bệnh nặng, đồng chí đã cố gắng chịu đựng những cơn đau đớn trong người, kiên trì đi công tác khắp nơi để sắp xếp, phối hợp tiến độ hạng mục với các đơn vị khác. Vào tháng cuối cùng của cuộc đời, để báo cáo hạng mục công trình chuyên ngành với quốc gia, đồng chí đã kiên trì sửa chữa đơn xin vốn đầu tư hạng mục trên giường bệnh, để không ảnh hưởng đến công việc của mọi người, đồng chí kiên quyết không cho các đồng nghiệp đến bệnh viện thăm hỏi. Cho đến một ngày trước khi từ giã cõi đời, đồng chí đã dùng chút sức lực cuối cùng, gọi điện cho đồng nghiệp, sắp xếp việc tiến hành bảo vệ hạng mục công trình, sau đó thì rơi vào tình trạng hôn mê sâu, và chỉ sau một ngày, đồng chí đã từ giã cõi đời. Đồng chí đã dùng hành động của mình thực hiện một câu nói mà đồng chí nói với vợ: “Tôi sống mà không cố gắng làm việc thì cuộc sống này không có ý nghĩa gì.”
Từ khi mắc bệnh năm 2011 đến nay, đồng chí Cận Lịch đã phải chịu đựng nỗi đau đớn, giày vò của bệnh tật, nhưng đồng chí đã dùng cách làm việc để chiến đấu ngoan cường với bệnh tật. Tâm thái tích cực, niềm tin kiên định, nghị lực phi thường và ý chí phấn đấu ngoan cường của đồng chí đã chiến thắng sự tôn nghiêm của “CON NGƯỜI”, cũng chiến thắng sự tôn nghiêm của sinh mệnh chí cao vô thượng.
Nhiều năm qua, trong công tác dạy học, đồng chí luôn nghiêm khắc với bản thân, khoan dung với mọi người, dốc hết tâm huyết, tận tụy làm việc giống như ngọn nến đốt cháy bản thân để chiếu sáng học trò, nhận được tình cảm yêu mến, kính trọng của mọi người. Đối với việc bồi dưỡng và hướng dẫn nghiên cứu sinh, thạc sĩ, tiến sĩ, đồng chí mặc dù luôn âm thầm quan tâm, yêu thương học trò, nhưng học trò của đồng chí đều cảm nhận thấy và ghi tạc tận đáy lòng.
Đồng chí Cận Lịch tôn kính, chúng tôi biết, đồng chí lưu luyến không nỡ rời xa đại gia đình thuộc kim mà mình đã phấn đấu ba mươi năm như thế nào, lưu luyến không nỡ rời xa đồng nghiệp sớm chiều bên nhau như thế nào, lưu luyến không nỡ rời xa những nghiên cứu sinh đang theo học khắc khổ như thế nào, lưu luyến không nỡ rời xa người thân và bạn bè đồng chí yêu quý như thế nào. Vậy mà đồng chí lại ra đi, ra đi rất đột ngột, ra đi rất cương quyết, thậm chí không kịp nhìn lại vật liệu mới mà đồng chí tự nghiên cứu và thiết kế, không kịp thưởng thức thành quả nghiên cứu xuất sắc của mình, càng không kịp nghe tiếng khóc bi thương xé gan xé phổi của vợ đồng chí, không kịp nghe tiếng khóc nghẹn ngào đau khổ tột cùng của con trai đồng chí, cũng không kịp nhìn những gương mặt tiếc thương lưu luyến của bạn bè thân thiết.
Đồng chí Cận Lịch, lần ly biệt này thật sự là lần vĩnh biệt của chúng ta rồi. Lần ly biệt này đối với đồng chí giống như ngọn nến đỏ đang cháy hóa thành làn khói xanh, theo gió bay đi vạn dặm. Còn đối với chúng tôi, lần ly biệt này giống như ở đường hầm không gian, gần trong gang tấc mà xa tận chân trời!
Đồng Chí Cận Lịch, tuy rằng đồng chí đã về nơi yên nghỉ cuối cùng, nhưng tấm lòng lương thiện khoan dung, thật thà chất phác, tinh thần cống hiến hết mình cho khoa học của đồng chí sẽ luôn sống mãi trong lòng chúng tôi.
Trong nỗi đau đớn bàng hoàng và niềm tiếc thương vô hạn, chúng tôi xin vĩnh biệt đồng chí tại đây. Ở miền cực lạc, mong đồng chí vẫn tiếp tục sự nghiệp khoa học mà đồng chí luôn yêu mến, trở thành “vật liệu mới” luôn phát sáng lấp lánh!”
Nghe bài điếu văn xúc động nghẹn ngào và thấm đẫm nước mắt này, tôi cảm giác như nhìn thấy Cận tiên sinh trong lần đầu tiên cách đây ba năm. Đó là năm thứ ba ông phẫu thuật ung thư đại tràng, kết quả kiểm tra định kỳ cho thấy, tế bào ung thư đã di căn đến phổi.
Khi tôi nói cho ông nghe kết quả kiểm tra, mặt ông cúi thấp, ánh mắt bình thản và nói nhỏ: “Thời gian không còn nhiều nữa, hy vọng có thể kịp hoàn thành hạng mục.”
Dù cách đây đã ba năm mà tôi vẫn nhớ rõ khuôn mặt ông khoảnh khắc đó: tri thức, nho nhã, ôn hòa và kiên cường.
Bước qua linh cữu của ông, nhìn mặt ông lần cuối, tôi lại cảm giác như nhìn thấy ông sau lần hóa trị, cắn răng chịu đau đớn bước xuống giường bệnh.
Vì đau đớn và sức khỏe suy yếu, ông bước từng bước khó khăn, cuối cùng ngã sõng soài ra nền đá lạnh băng ở hành lang, ông khó khăn dùng cánh tay chống xuống nền nhà để đứng dậy, vịn tường chậm chạp bước đến hướng thang máy…
Lúc đó, tôi không hiểu có hội nghị nào lại quan trọng hơn tính mạng con người, nhưng giờ thì tôi đã hiểu, đó không phải là hội nghị, đó là tín ngưỡng cao cả của một nhà khoa học.
5.
Cuộc sống chỉ cho ông thời hạn cuối cùng, ông liền dùng thời hạn cuối cùng ấy cố gắng hết sức làm thật nhiều việc có ý nghĩa.
Cuộc sống cũng cho chúng ta thời hạn cuối cùng. Nhưng thời hạn này dường như rất dài, có thể là vài chục năm, và chúng ta đã dùng thời gian rất dài này để làm gì?
Chờ đợi một người mà biết rõ người ấy sẽ không bao giờ quay trở lại?
Yêu sâu sắc một người mà biết rõ người ấy không nên yêu?
Hay là theo đuổi công danh lợi lộc trong thế giới phù phiếm, hào nhoáng?
Chúng ta hầu như đã sớm quên mất thế nào là - tín ngưỡng!
Tối hôm đó, mười giờ tối ông mới đến bệnh viện, tôi kiểm tra đơn giản cho ông, đề nghị ông ngày hôm sau hãy làm hóa trị.
Không ngờ, mười hai giờ đêm ngay tối hôm ấy, bệnh của Cận tiên sinh trở nên xấu đi và ông rơi vào hôn mê. Chủ nhiệm Dương phải nhanh chóng cấp cứu mười tiếng đồng hồ mới có thể kéo Cận tiên sinh từ cõi chết trở về. Qua kiểm tra, tế bào ung thư đã di căn đến tim, chữa trị thế nào cũng không có ý nghĩa gì nữa, ông phải ở trong phòng theo dõi dành cho bệnh nhân mắc bệnh nặng và được quan sát tỉ mỉ.
Cho dù như vậy thì hằng đêm, ánh đèn trong phòng chăm sóc đặc biệt ấy vẫn sáng.
Tôi bước vào phòng, thấy Cận tiên sinh mệt mỏi dựa vào thành giường, trên đầu gối đặt chiếc laptop, một tay ông giữ chiếc laptop, một tay chống vào gối, cố gắng mở to mắt nhìn chăm chú vào đơn xin vốn đầu tư hạng mục trên màn hình máy tính.
Tôi lo lắng bước đến nhắc nhở ông: “Chú Cận, chú nên nghỉ ngơi thôi.”
Ông mỉm cười với tôi: “Rất nhanh thôi là tôi có thể nghỉ ngơi rồi.”
“…” Nhìn nụ cười của ông, tôi tự nhiên không cầm được nước mắt, bước nhanh ra khỏi phòng chăm sóc đặc biệt với đôi mắt ướt nhòe.
Tôi không muốn khuyên nhủ ông nữa, thời khắc cuối cùng của cuộc sống này, ông có quyền lựa chọn cách sống mà ông muốn.
Tôi về văn phòng rót một cốc nước nóng, bước đến khu cầu thang. Bà Cận quả nhiên đang ngồi đờ đẫn ở đó.
Tôi đưa cốc nước nóng cho bà, nói: “Cô Trần à, cô cùng mệt rồi, nên ngủ một chút đi.”
Bà lắc đầu, nhìn tôi với đôi mắt tuyệt vọng. “Bác sĩ Bạc à, ông ấy không chống trụ được mấy ngày nữa, tôi muốn bảo con trai đến gặp mặt ông ấy lần cuối, nhưng ông ấy không đồng ý. Con trai tôi đang làm việc ở Hồng Kông, công việc rất bận rộn…”
Tôi biết bà luôn tôn trọng Cận tiên sinh, tất cả mọi chuyện bà đều muốn làm theo mong muốn của ông ấy nên nhất thời tôi không biết trả lời thế nào.
Cốt nhục chia ly thường sẽ có cảm giác đau đớn như bị rút gân róc xương, nếu như ngay cả lời tạm biệt cuối cùng cũng không kịp nói mà người đã ra đi, thì người sống sẽ cảm thấy tiếc nuối đến nhường nào?
Bà thấy tôi trầm mặc không nói thì tiếp tục hỏi: “Thứ lỗi cho tôi mạo muội nhé, tôi nghe người ta nói, bác sĩ vốn đi du học ở bên Nhật, vì bố bị bệnh nên đã nghĩ học về chăm sóc ông ấy, có phải không?”
Tôi hiểu ý của bà nên đáp: “Vâng. Bố cháu ban đầu cũng sợ cháu lo lắng, luôn giấu giếm cháu, may mà có một người bạn nói cho cháu biết, cháu nghĩ, cả đời này luôn biết ơn người bạn ấy.”
Bà Cận nói: “Cảm ơn!”
“Không có gì ạ, muộn lắm rồi, cô mau đi nghỉ ngơi đi.”
Tiễn bà Cận về phòng bệnh, tôi mới trở về phòng yên tâm ngủ một giấc.
Hơn bốn giờ sáng, tôi vừa ngủ chưa được bao lâu thì bị tiếng đập cửa ầm ầm làm tỉnh giấc.
“Bác sĩ Bạc, cứu mạng, cứu mạng!” Tiếng cầu cứu thê lương và tuyệt vọng khiến tôi lập tức tỉnh ngủ.
Tôi bước xuống giường với tốc độ nhanh nhất, chạy hai bước đến trước cửa phòng và mở cửa.
Bà Cận bổ nhào đến trước mặt tôi, hai tay túm chặt lấy vạt áo của tôi, giọng run rẩy: “Ông ấy lại hôn mê rồi… cứu ông ấy… hãy cứu ông ấy.”
Tôi vừa kêu y tá chuẩn bị máy móc và thuốc men, vừa chạy đến phòng chăm sóc đặc biệt.
Bà Cận hoảng hốt, sợ hãy hỏi tôi: “Ông ấy còn có thể tỉnh lại, đúng không? Tôi đã nói với con trai rồi, nó sẽ về ngay trong ngày hôm nay… Liệu nó còn có thể nhìn mặt ông ấy lần cuối không?”
Đây là lần thứ ba hôn mê của Cận tiên sinh rồi, cách lần hôn mê trước một tháng. Tình trạng sức khỏe của Cận tiên sinh đã bị tổn thương nghiêm trọng, hầu như tất cả chức năng trong cơ thể đều đã bị tết bào ung thư xâm nhập, dựa vào kinh nghiệm thường thấy để phán đoán thì bắt đầu từ khi xuất hiện triệu chứng hôn mê, người bệnh chỉ sống được nhiều nhất khoảng một tháng.
Đối diện với sự mong mỏi của bà Cận, tôi chỉ biết đáp: “Cháu sẽ cố gắng! Nhưng cô cũng cần chuẩn bị tốt tâm lý, khả năng chú ấy tỉnh lại là rất ít.”
Bà không nói gì, chỉ nắm lấy tay của Cận tiên sinh, rơi vào trạng thái tuyệt vọng đau đớn cùng cực, mắt đã không còn giọt lệ nào, miệng cũng không thể thốt nên lời nào nữa.
Tôi đã cố gắng hết sức, thuốc có thể dùng thì đã dùng rồi, các phương pháp để cấp cứu đều thử rồi, nhưng cuối cùng, Cận tiên sinh đã không tỉnh lại.
Con trai của ông ấy cuối cùng cũng từ Hồng Kông trở về, cậu ấy quỳ bên giường bệnh, nước mắt tuôn rơi, nói: “Bố, mấy ngày trước, chẳng phải bố bảo đến Hồng Kông sống sao, bố nói muốn sống một cuộc sống nhàn nhã mà… Hóa ra đều là lừa gạt con.”
Cậu ấy nói: “Bố, tại sao bố không nói cho con biết? Năm năm trời, tại sao bố bị bệnh năm năm mà không nói cho con biết?”
Cậu ấy nói: “Bố, bố nên nói sớm cho con biết mới phải… ít nhất con cũng được ở bên cạnh bố nhiều hơn, nói chuyện với bố nhiều hơn…”
Cậu ấy nói: “Bố, bố tỉnh lại đi, bố nói với con một câu thôi cũng được, hay nhìn con một cái thôi cũng được…”
Cậu ấy khóc nghẹn ngào, sau một hồi lẩm bẩm tự nói một mình, cậu ấy lại gào khóc thảm thiết, nhưng đáng tiếc là đều không có tác dụng, cậu ấy không thể lay gọi người bố đang hấp hối, không thể an ủi được người mẹ đang đau đớn tuyệt vọng, càng không thể giải tỏa được sự kìm nén và nỗi đau trong tim.
Ngày hôm sau, Cận tiên sinh đã trút hơi thở cuối cùng trong cơn hôn mê.
Cuối cùng, ông để lại cho nhân thế là một lá đơn xin vốn đầu tư hạng mục, còn đối với người thân, con cái, bạn bè thì không để lại chữ nào.
4.
Hai ngày sau, tôi tham dự tang lễ của Cận tiên sinh.
Tôi từng cho rằng cho đến lúc chết cũng muốn ở một mình như Cận tiên sinh, tính tình chắc hẳn là rất cô độc, lầm lì, vì đến giờ phút hấp hối mà cũng không có một ai đến thăm ông.
Cho đến khi tham dự tang lễ của ông ngày hôm đó, nhìn thấy cảnh hàng nghìn người đứng trước linh đường của ông, vòng hoa xếp chật kín xung quanh, tôi mới hiểu, ông biết có quá nhiều người quan tâm đến ông, để ý đến ông, kính trọng ông, thế nên ông mới luôn giấu giếm bệnh tình của mình. Ông không muốn nỗi đau khổ của mình trở thành nỗi buồn của người khác, không muốn làm phiền đến người khác bởi bệnh tật của mình, càng không muốn những người quan tâm, để ý đến ông khiến ông phải bỏ qua những “cuộc họp quan trọng”.
Sự giấu giếm này khiến ông cố chấp sống hết quãng đời còn lại, tuy nhiên, sự ra đi như vậy đối với những người đang đứng trước linh đường của ông đây thật qua tán nhẫn.
Trong tang lễ, tôi đứng giữa những người mà mình không quen, lặng lẽ lắng nghe bài điếu văn về ông, đó là bài điếu văn xúc động nhất mà tôi từng nghe.
“Hôm nay, với lòng xót thương vô hạn, chúng ta đến đây tổ chức lễ tiễn đưa đồng chí Cận Lịch, giảng viên hướng dẫn luận án tiến sĩ, nhà khoa học vật liệu, người đã phấn đấu không biết mệt mỏi trong suốt cuộc đời mình, người chiến sĩ trên mặt trận vật liệu thuộc kim tiên tiến của Học viện Khoa học Trung Quốc. Đầu tiên, cho phép tôi thay mặt các đồng nghiệp, bạn bè thân bằng cố hữu có mặt ngày hôm nay xin bày tỏ lòng tiếc thương vô hạn với sự ra đi của đồng chí Cận Lịch, đồng thời gửi tới gia quyến của đồng chí lời thăm hỏi và chia buồn sâu sắc.
Ba mươi năm qua, trong công tác nghiên cứu khoa học, đồng chí Cận Lịch luôn cẩn trọng, tỉ mỉ, hoàn thành nhiều nhiệm vụ khó khăn mà nhà nước giao cho, âm thầm cống hiến cả tuổi trẻ và sinh mệnh của mình. Mấy năm gần đây, đồng chí đã biết mình mắc trọng bệnh, nhưng lại càng phấn đấu làm việc. Bạn bè thân thiết thấy đồng chí ngày càng gầy ốm, khuyên đồng chí nên giảm lượng công việc, chú ý nghỉ ngơi, nhưng đồng chí nói: “Chỉ cần được làm việc là tôi không cảm thấy mệt chút nào.”
Có một dạo, để tăng tiến độ nghiên cứu hạng mục công trình, đồng chí Cận Lịch liên tục phải đi công tác, vợ của đồng chí biết tình trạng sức khỏe của đồng chí, nhưng khuyên thế nào cũng không được, đành hỏi: “Trong nhóm đề tài của ông có hơn chục thanh niên trẻ, những công việc đó ông không làm không được sao?” Và câu trả lời của đồng chí Cận Lịch làm cho chúng ta xác động. Đồng chí đã nói: “Không phải công việc cần tôi, mà là tôi cần công việc.” Cho đến bây giờ, chúng ta vẫn khó có thể hiểu được, đồng chí đã quên bản thân như thế nào, yêu công việc như thế nào mới làm được như thế!
Để nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, trong suốt thời gian lâm bệnh nặng, đồng chí đã cố gắng chịu đựng những cơn đau đớn trong người, kiên trì đi công tác khắp nơi để sắp xếp, phối hợp tiến độ hạng mục với các đơn vị khác. Vào tháng cuối cùng của cuộc đời, để báo cáo hạng mục công trình chuyên ngành với quốc gia, đồng chí đã kiên trì sửa chữa đơn xin vốn đầu tư hạng mục trên giường bệnh, để không ảnh hưởng đến công việc của mọi người, đồng chí kiên quyết không cho các đồng nghiệp đến bệnh viện thăm hỏi. Cho đến một ngày trước khi từ giã cõi đời, đồng chí đã dùng chút sức lực cuối cùng, gọi điện cho đồng nghiệp, sắp xếp việc tiến hành bảo vệ hạng mục công trình, sau đó thì rơi vào tình trạng hôn mê sâu, và chỉ sau một ngày, đồng chí đã từ giã cõi đời. Đồng chí đã dùng hành động của mình thực hiện một câu nói mà đồng chí nói với vợ: “Tôi sống mà không cố gắng làm việc thì cuộc sống này không có ý nghĩa gì.”
Từ khi mắc bệnh năm 2011 đến nay, đồng chí Cận Lịch đã phải chịu đựng nỗi đau đớn, giày vò của bệnh tật, nhưng đồng chí đã dùng cách làm việc để chiến đấu ngoan cường với bệnh tật. Tâm thái tích cực, niềm tin kiên định, nghị lực phi thường và ý chí phấn đấu ngoan cường của đồng chí đã chiến thắng sự tôn nghiêm của “CON NGƯỜI”, cũng chiến thắng sự tôn nghiêm của sinh mệnh chí cao vô thượng.
Nhiều năm qua, trong công tác dạy học, đồng chí luôn nghiêm khắc với bản thân, khoan dung với mọi người, dốc hết tâm huyết, tận tụy làm việc giống như ngọn nến đốt cháy bản thân để chiếu sáng học trò, nhận được tình cảm yêu mến, kính trọng của mọi người. Đối với việc bồi dưỡng và hướng dẫn nghiên cứu sinh, thạc sĩ, tiến sĩ, đồng chí mặc dù luôn âm thầm quan tâm, yêu thương học trò, nhưng học trò của đồng chí đều cảm nhận thấy và ghi tạc tận đáy lòng.
Đồng chí Cận Lịch tôn kính, chúng tôi biết, đồng chí lưu luyến không nỡ rời xa đại gia đình thuộc kim mà mình đã phấn đấu ba mươi năm như thế nào, lưu luyến không nỡ rời xa đồng nghiệp sớm chiều bên nhau như thế nào, lưu luyến không nỡ rời xa những nghiên cứu sinh đang theo học khắc khổ như thế nào, lưu luyến không nỡ rời xa người thân và bạn bè đồng chí yêu quý như thế nào. Vậy mà đồng chí lại ra đi, ra đi rất đột ngột, ra đi rất cương quyết, thậm chí không kịp nhìn lại vật liệu mới mà đồng chí tự nghiên cứu và thiết kế, không kịp thưởng thức thành quả nghiên cứu xuất sắc của mình, càng không kịp nghe tiếng khóc bi thương xé gan xé phổi của vợ đồng chí, không kịp nghe tiếng khóc nghẹn ngào đau khổ tột cùng của con trai đồng chí, cũng không kịp nhìn những gương mặt tiếc thương lưu luyến của bạn bè thân thiết.
Đồng chí Cận Lịch, lần ly biệt này thật sự là lần vĩnh biệt của chúng ta rồi. Lần ly biệt này đối với đồng chí giống như ngọn nến đỏ đang cháy hóa thành làn khói xanh, theo gió bay đi vạn dặm. Còn đối với chúng tôi, lần ly biệt này giống như ở đường hầm không gian, gần trong gang tấc mà xa tận chân trời!
Đồng Chí Cận Lịch, tuy rằng đồng chí đã về nơi yên nghỉ cuối cùng, nhưng tấm lòng lương thiện khoan dung, thật thà chất phác, tinh thần cống hiến hết mình cho khoa học của đồng chí sẽ luôn sống mãi trong lòng chúng tôi.
Trong nỗi đau đớn bàng hoàng và niềm tiếc thương vô hạn, chúng tôi xin vĩnh biệt đồng chí tại đây. Ở miền cực lạc, mong đồng chí vẫn tiếp tục sự nghiệp khoa học mà đồng chí luôn yêu mến, trở thành “vật liệu mới” luôn phát sáng lấp lánh!”
Nghe bài điếu văn xúc động nghẹn ngào và thấm đẫm nước mắt này, tôi cảm giác như nhìn thấy Cận tiên sinh trong lần đầu tiên cách đây ba năm. Đó là năm thứ ba ông phẫu thuật ung thư đại tràng, kết quả kiểm tra định kỳ cho thấy, tế bào ung thư đã di căn đến phổi.
Khi tôi nói cho ông nghe kết quả kiểm tra, mặt ông cúi thấp, ánh mắt bình thản và nói nhỏ: “Thời gian không còn nhiều nữa, hy vọng có thể kịp hoàn thành hạng mục.”
Dù cách đây đã ba năm mà tôi vẫn nhớ rõ khuôn mặt ông khoảnh khắc đó: tri thức, nho nhã, ôn hòa và kiên cường.
Bước qua linh cữu của ông, nhìn mặt ông lần cuối, tôi lại cảm giác như nhìn thấy ông sau lần hóa trị, cắn răng chịu đau đớn bước xuống giường bệnh.
Vì đau đớn và sức khỏe suy yếu, ông bước từng bước khó khăn, cuối cùng ngã sõng soài ra nền đá lạnh băng ở hành lang, ông khó khăn dùng cánh tay chống xuống nền nhà để đứng dậy, vịn tường chậm chạp bước đến hướng thang máy…
Lúc đó, tôi không hiểu có hội nghị nào lại quan trọng hơn tính mạng con người, nhưng giờ thì tôi đã hiểu, đó không phải là hội nghị, đó là tín ngưỡng cao cả của một nhà khoa học.
5.
Cuộc sống chỉ cho ông thời hạn cuối cùng, ông liền dùng thời hạn cuối cùng ấy cố gắng hết sức làm thật nhiều việc có ý nghĩa.
Cuộc sống cũng cho chúng ta thời hạn cuối cùng. Nhưng thời hạn này dường như rất dài, có thể là vài chục năm, và chúng ta đã dùng thời gian rất dài này để làm gì?
Chờ đợi một người mà biết rõ người ấy sẽ không bao giờ quay trở lại?
Yêu sâu sắc một người mà biết rõ người ấy không nên yêu?
Hay là theo đuổi công danh lợi lộc trong thế giới phù phiếm, hào nhoáng?
Chúng ta hầu như đã sớm quên mất thế nào là - tín ngưỡng!
/39
|