Trong quân ngũ, thời gian nghỉ ngơi nhàn nhã luôn xa xỉ và ngắn ngủi. Mấy ngày sau Tết, theo chỉ thị thông báo của Bộ Tổng tham mưu về đợt diễn tập quân sự đầu năm mới, Sư đoàn A lại trở về với tiến độ tập luyện thường ngày. Ngay cả Nghiêm Chân cũng cảm nhận sâu sắc kiểu bận rộn của “người lính thời bình cũng như thời chiến” này, mỗi ngày, từ trong giấc mơ Nghiêm Chân đã nghe thấy tiếng còi báo động; tiếng xe tăng, xe thiết giáp rầm rập nghiến qua; và còn cả tiếng động khẽ khàng lúc anh thức dậy, thay quần áo, đánh răng rửa mặt. Lý do không chỉ bởi cô ngủ giấc không sâu, mà bởi vì khi anh đi khỏi hơn nửa chiếc giường cũng mất đi hơi ấm.
Sở Dao là người nhà quân nhân lâu năm, nhìn đám đàn ông bận rộn đã thành quen, “Chị nói em nghe, mỗi lần chị đến, thời gian Lão Lưu ở bên chị gộp cả lại cũng chưa đến một ngày.”
Nghiêm Chân vừa giữ sợi len cho chị vừa hiếu kì hỏi: “Lão Lưu anh ấy không về nhà nghỉ ngơi hả chị?”
“Về chứ, ngủ như con heo chết trương, nói mười câu mà nghe được lão ấy ừ một tiếng đã là khá khẩm lắm rồi!”
Dứt lời liền nghe thấy một tràng cười vang giòn từ phía cửa vọng tới, theo sau là giọng nói to khỏe đặc trưng của Lão Lưu: “Này nhé, tụ tập ở đây lên án tôi đấy hả? Tôi đây không đi làm cách mạng nữa chắc?”
Sở Dao nguýt anh ta một cái: “Hôm nay về sớm thế?”
Lão Lưu cười: “Còn không về thì mình lại chả cách chức cái mạng của tôi đi ấy à.”
Thấy hai người không dễ gì có được thời gian trò chuyện, Nghiêm Chân tạm biệt ra về, chưa đến đầu ngã rẽ đã trông thấy Cố Hoài Việt đang đi tới. Cố Hoài Việt mặc bộ quân phục dùng khi thao luyện, đường như khắp người anh đều ngấm mùi khói súng, chẳng khác nào vừa từ nơi chiến trận trở về chứ không phải thao trường. Anh vừa đi vừa hạ mũ xuống gẩy gẩy mái tóc, nét mặt có vẻ thờ ơ. Lúc ngẩng đầu lên, ánh mắt hai người giao nhau, cả hai đều ngẩn ra một lúc. Cuối cùng vẫn là Nghiêm Chân không nhịn được bật cười. Từ lúc bắt đầu luyện tập, thời gian cô nhìn thấy anh ít đi hẳn, hôm nay khó khăn lắm mới có cơ hội gặp, không ngờ ai kia lại xuất hiện với dáng vẻ này. Cố Hoài Việt bị cô cười đến bối rối, giơ tay quẹt mũi cô: “Không được cười nữa.”
“Rõ!” Cô chớp chớp mắt, lại càng cười vui vẻ hơn, Cố Hoài Việt bất đắc dĩ híp mắt lại, khóe môi vô thức cong lên.
Về đến nhà, người bạn nhỏ đang bò ra bàn chép thành ngữ, khỏi cần hỏi, chuẩn là phạm lỗi rồi! Nhưng khác ở chỗ, người phạt cậu lần này là cô giáo Nghiêm trước nay vẫn bao che cho cậu.
Sáng nay, Nghiêm Chân dắt cậu đến chúc Tết ông Tịch Thiếu Phong và bà Chung Lê Anh, đúng lúc hai bạn nhỏ kia cũng ở đó. Nghiêm Chân bèn để Gia Minh ra chơi cùng hai bạn, kết quả là chưa được bao lâu đã làm cho con nhà người ta khóc toáng lên, hỏi nguyên do thì nói là bạn nhỏ kia thích khẩu súng của cậu, muốn mượn chơi, tiểu Tư lệnh Cố sống chết gì cũng không cho mượn.
“Bố con bảo rồi, người lính mà không thể giữ gìn cẩn thận vũ khí của mình thì không phải là người lính tốt, đến lính mà con còn làm không xong thì làm tướng quân thế nào được!”
Lời vừa thốt ra, ông Tịch Thiếu Phong đang đọc báo trong phòng khách cũng phải phá lên cười, khen ngợi cậu bé này có chí khí. Bà Chung Lê Anh cùng mẹ của hai bạn nhỏ kia đều tỏ ý không có chuyện gì. Nhưng suy cho cùng là Cố Gia Minh đã bắt nạt con người ta, Nghiêm Chân dù thế nào cũng phải biết ý, ngay tại chỗ liền nói rằng về nhà phạt cậu chép thành ngữ. Không ngờ vừa vào cửa nhà, anh bạn nhỏ đã quẩy mông tới trước bàn bò nhoài ra bắt đầu chép phạt.
Cố Hoài Việt liếc xéo cậu bé, nghe xong nguồn cơn câu chuyện, nói: “Đáng phạt.”
Anh bạn nhỏ vô cùng căm phẫn trước hành vi “dung túng” cho cô giáo Nghiêm của thủ trưởng, quay đầu lại, vung tay ngoáy mạnh lên trang giấy một câu thành ngữ:”Lang bối vi gian.[2]”
[2] Cấu kết với nhau làm việc xấu.
Khắp người bám đầy bụi đất, trước khi bữa tối được nấu xong, Cố Hoài Việt đi tắm rửa cho sạch sẽ. Hôm nay trước giờ thao luyện, Lưu Hướng Đông gọi một cuộc điện thoại lên Bộ Tư lệnh, nghe ý tứ của Chính ủy Quân khu – Giả Kỳ, đối với vấn đề điều Sư đoàn nào đi tham gia cuộc diễn tập sau Tết lần này vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều. Chung quy lại, những người trong Quân khu háo hức với chuyện này không chỉ có mình anh ta, cũng không chỉ riêng Sư đoàn của anh ta mới có bản lĩnh. Hiển nhiên Lưu Hướng Đông cũng hiểu được, cúp điện thoại xuống mà lo lắng trăm bề. Cố Hoài Việt an ủi anh ta, cứ coi như không vì mục đích chuẩn bị cho diễn tập thì việc huấn luyện trong đơn vị cũng không thể trì hoãn được. Hơn hết, trong lòng họ đều hiểu rõ mục đích của Thẩm Mạnh Xuyên là gì.
“Cậu nghĩ thoáng như thế thật đấy à?” Lưu Hướng Đông chọc anh, “Hoài Việt, nói thật lòng thì tôi chẳng có gì để mà trông đợi cả, tôi học hành chẳng đến đâu, các cụ có thiêng cũng chỉ phù hộ cho đi được đến tận đây thôi. Nhưng cậu thì khác, cậu còn trẻ, Phó Sư đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng, cậu không muốn tiến lên à?”
“Nói không muốn là nói dối.” Cố Hoài Việt buông bút xuống, ngồi trên chiếc ghế xoay vẻ suy tư, “Nhưng Lão Lưu, anh cũng biết quan hệ giữa em với Thẩm Mạnh Xuyên, chỉ cần ở chung một địa bàn là đối đầu nhau.”
Lão Lưu hiểu điều này, ở nơi tụ hội những kẻ tài ba lại cao ngạo, có ai chịu thua ai bao giờ. “Thế nên tôi mới cảm thấy lần này là một cơ hội tốt.”
Cố Hoài Việt trầm ngâm giây lát: “Đúng là như thế, nhưng cơ hội này đối với Thẩm Mạnh Xuyên mà nói có lẽ quan trọng hơn. Em không muốn sau này đến lúc đối đầu thì ngay đến cả một đối thủ xứng tầm cũng tìm không ra.”
Lời này nói ra, Lão Lưu thực sự nể phục anh. Khỏi phải nói, tính khí con người này quả là có nhiều khi cao ngạo ngất trời.
Cố Hoài Việt tắm rửa xong xuôi, lúc đi ra phòng ngoài thì Nghiêm Chân đã dọn cơm lên, còn làm món trứng lòng đào mà người bạn nhỏ thích ăn nhất. Tiểu Tư lệnh Cố đói lả suốt buổi chiều, vừa thấy ăn là thâm thù đại hận gì cũng quên sạch. Bộ dạng háu ăn này đến bố cậu nhìn cũng thấy khó coi, giơ ngón tay búng lên đầu cậu.
Xới cơm xong, ngồi xuống ghế Nghiêm Chân chợt nhớ tới một vấn đề. Mấy ngày nữa Gia Minh phải đi học, nhưng đến giờ anh vẫn chưa nhắc gì tới chuyện tảo mộ Lâm Kha, không lẽ là vì cô?
Nghĩ tới đó, Nghiêm Chân đặt đũa xuống ướm hỏi anh: “Hoài Việt, năm nay không đi tảo mộ sao?”
Đôi đũa trong tay Cố Hoài Việt khựng lại, nhìn cô kinh ngạc. Nghiêm Chân cố gắng nở một nụ cười thật chuẩn mực: “Em nghe Gia Minh nói, năm nào anh cũng đi tảo mộ Lâm Kha. Năm nay không đi à?”
“Có đi.” Lúc lâu sau, Cố Hoài Việt trả lời.
Nghiêm Chân đáp lại một tiếng rồi cúi đầu ăn cơm, bữa cơm dường như không còn mùi vị. Lúc rửa bát cô ủ rũ vô cùng, rõ ràng đã nghĩ thông suốt, thế mà nghe thấy anh nói đi thì bế tắc lại hoàn bế tắc, thật không ra gì! Đang ngẫm nghĩ thì tay cô bỗng nhiên trống trải, chiếc bát đang rửa được người ta đón lấy. Nghiêm Chân giật mình hốt hoảng, nghiêng đầu lại, nhìn thấy Cố Hoài Việt, liền thở phào: “Anh làm em hết hồn, em còn tưởng làm vỡ bát rồi chứ.”
Anh mỉm cười nghe cô trách móc: “Tại em nghĩ ngợi nhập tâm quá đấy.”
Bị khơi đúng tâm sự Nghiêm Chân không nói không rằng, có một quãng chỉ nghe thấy tiếng nước chảy róc rách. Lúc sau, Cố Hoài Việt lên tiếng phá vỡ sự im lặng: “Đừng nghĩ nữa. Chúng ta sẽ cùng đi.”
“Dạ?” Lần này đến lượt cô ngỡ ngàng.
Anh rửa sạch tay, lau khô rồi ôm vai cô: “Anh không muốn trong lòng em có nút thắt. Thế nên chúng mình sẽ cùng đi.” Anh không muốn lúc anh đưa Gia Minh đi tảo mộ Lâm Kha, cô ngồi ở nhà nghĩ đông nghĩ tây, cô không thích nghĩ ngợi lung tung, làm thế khiến cô không thấy vui, vậy thì anh sẽ không để cô phải nghĩ ngợi, tự tay anh tháo nút thắt ấy ra cho cô. Muốn tháo chuông phải cần đến người buộc chuông, đạo lý này anh hiểu.
Nghiêm Chân có phần xúc động, trên gương mặt thoáng nở nụ cười: “Vâng.”
Thứ bảy, Cố Hoài Việt dành thời gian đưa Nghiêm Chân và bé Gia Minh cùng đến Kinh Sơn.
Phần mộ của Lâm Kha nằm trong khu nghĩ trang ở Kinh Sơn, vì vừa có một trận tuyết lớn nên xe chạy đến chân núi thì không đi lên được nữa. Vậy nên Cố Hoài Việt đậu xe phía dưới, đi bộ lên trên. Nghiêm Chân chưa từng đến Kinh Sơn, nay nhìn ngắm cảnh núi non trong tuyết, ngoài cảm giác se se lạnh thì trong lòng lại thấy bình tĩnh lạ lùng.
Nghiêm Chân không biết gì nhiều về Lâm Kha. Lúc đầu vội vàng đăng ký kết hôn, có thể nói là cô gần như không hề nhớ tới người này. Sau khi kết hôn, có lẽ là bởi kị húy nên người nhà họ Cố cũng không bao giờ nhắc tới Lâm Kha trước mặt cô. Vậy nên đừng nói là biết đến, đến một tấm ảnh cô cũng chưa từng thấy. Sau này vẫn là lời nói của cậu bé nhắc nhở cô, nhắc nhở cô trên đời này ngoài bản thân cô ra, vẫn còn một người, có quan hệ thân mật với người đàn ông bên cạnh cô. Nghĩ đến đó, cô bất giác đưa mắt nhìn Cố Hoài Việt, đúng lúc anh ngoảnh lại, mỉm cười với cô: “Đến rồi.”
Ba dãy mộ thưa thớt. Lâm Kha, được chôn cất ở đây.
Nghiêm Chân hít sâu một hơi, đi theo sau Cố Hoài Việt, chậm rãi bước vào trong. Kỳ thực trên đường đi tới, Nghiêm Chân từng vẽ ra dáng hình Lâm Kha trong tưởng tượng. Vì Cố Hoài Việt nói cô ấy là tiểu công chúa được mọi người yêu chiều, vậy thì cô nghĩ chắc hẳn cô ấy phải giống như ánh mặt trời rực rỡ, trẻ trung phơi phới, dẫu cho nụ cười có mang vẻ ngạo mạn, kiêu sa cũng không làm người ta chán ghét, giống như Thẩm Mạnh Kiều vậy. Xuất thân tốt, gia cảnh tốt, số mệnh từ khi sinh ra đã là con cưng vàng ngọc.
Nhưng đến khi thực sự nhìn thấy, lại cảm giác không hề giống như vậy. Nghiêm Chân đứng trước mộ bia Lâm Kha, nhìn tấm ảnh được khắc trên bia, có một sự bất ngờ trong thoáng chốc. Vì người con gái trong bức ảnh kia có nét sầu thương không thể xóa nhòa, quá rõ rệt, rõ đến mức cô chừng như không có cách nào coi như không thấy. Nhưng rất nhanh cô lại thấy thoải mái, thực ra, cho dù ông trời đã ban tặng cho Lâm Kha nhiều đến thế thì cô ấy cũng chỉ là một người đáng thương, vì thứ mà cô ấy mong muốn nhất chưa bao giờ thuộc về cô ấy cả.
Khoảnh khắc này, Nghiêm Chân chợt nhớ lại chính mình, thuở ấu thơ cô vẫn còn cưỡi trên vai bố vui cười như một đứa trẻ ngây ngô, thế mà chớp mắt đã bế trên tay một bức ảnh được đóng khung, bà nội bảo, đó gọi là di ảnh. Người đã qua đời thì bức ảnh ấy mới có thể được gọi là di ảnh. Xem ra, trên đời này, vốn chẳng thiếu những chuyện khiến cho thế giới của con người ta bỗng chốc trời nghiêng đất ngả, điều quan trọng là liệu bản thân mình có chống đỡ được hay không. Cô đã một mình chống đỡ, nhưng còn người con gái này thì sao? Cô ấy tìm đến một người thông minh nhất, lại cũng ngốc nghếch nhất để ở bên cô ấy. Điều này khiến cô vừa khó chịu, lại có chút…. Ngưỡng mộ.
Cố Hoài Việt đứng yên trước bia mộ, cũng lặng lẽ nhìn bức ảnh in trên phiến đá, đôi mắt của người trong ảnh lặng trầm như nước, nụ cười nhàn nhạt hững hờ, nỗi u sầu đậm sâu trên gương mặt. Thực ra, cô ấy cười rất đẹp, nhưng đối diện với anh, cô ấy chẳng mấy khi cười, như thể nhìn vào giữa khoảng không vô hạn, một đôi mắt chẳng bao giờ phô bày được cảm xúc. Kỳ thực anh từng thấy khó hiểu, tuổi trẻ của anh đã sống trong những ngày tháng đầy tự hào, anh không hiểu tại sao cô ấy lại nhìn xuyên qua anh mà trông ra một người khác, khiến cho lòng kiêu hãnh của anh bị thách thức. Sau đó rất lâu anh mới ngẫm được ra, họ đều yêu thương cô ấy, nhưng vì con người khác biệt nên ý nghĩa của sự thương yêu cũng khác hẳn nhau.
Anh và Hoài Ninh quả thực không giống nhau. Tình yêu thương lớn nhất Hoài Ninh dành cho cô ấy là buông bỏ ra đi, không yêu nên sẽ không cho cô ấy bất cứ niềm hy vọng nào. Còn cách mà anh thương cô ấy là cùng cô ấy kết hôn, cưng chiều cô ấy, để cô ấy được sống cuộc đời hạnh phúc như trước nay vẫn vậy, cho đến một ngày cô ấy nói với mình đó không phải là yêu. Chuyện này khiến anh cười ra nước mắt, cùng lúc lại khiến anh lạc lối vào miên man.
“Bố ơi!” giọng nói lanh lảnh của cậu bé kéo thần trí anh quay trở lại. Cố Hoài Việt xoay người, xoa đầu cậu bé, đón lấy bó hoa bách hợp trắng muốt trong tay cậu. Lại nhìn Nghiêm Chân, hai người nhìn nhau cười, anh khom người, đặt bó hoa xuống trước mộ phần. Đứng thẳng, lại thực hiện một động tác chào chuẩn mực. Xong xuôi hết cả, anh quay lại nhìn Nghiêm Chân và Cố Gia Minh, nói: “Đi nào.”
Nghiêm Chân hướng về anh mỉm cười: “Vâng.”
Đường khi về dễ đi hơn con đường lúc tới, cậu bé Cố Gia Minh tung tăng đi trước, thỉnh thoảng quay đầu lại vẫy tay gọi họ. Nỗi buồn trẻ con chẳng kéo dài lâu, ra khỏi mảnh đất trầm mặc khói hương kia, nét mặt đã giống như trời quang mấy tạnh trong xanh trở lại. Cố Hoài Việt nhìn theo bóng lưng cậu bé, mỉm cười, “Nghiêm Chân, có lúc anh nghĩ, năm nào cũng đưa Gia Minh đến đây, có phải là không hay lắm không.”
Nghiêm Chân nghe anh nói vậy ngây ra một lúc: “Tại sao?”
“Anh luôn thấy mừng vì Gia Minh là một đứa trẻ vui tươi hoạt bát, thằng bé không có ấn tượng gì về việc mẹ nó qua đời nên cũng không cảm thấy buồn bã. Còn anh thì cứ bắt nó phải nhớ lại, liệu như thế có tốt cho nó không?”
Anh nghiêng đầu sang nhìn, muốn xin ý kiến của cô. Nghiêm Chân lại im lặng nhìn anh, không nói. Cố Hoài Việt hiểu, hiểu rằng vấn đề của mình làm khó cho cô, anh không hỏi thêm nữa, nắm lấy bàn tay cô đang nhét trong túi áo, cảm giác ấm nồng khiến anh không kìm được mà siết chặt lại: “Anh biết rồi, sau này không làm thế nữa.”
Nghiêm Chân không ngờ anh lại có được đáp án nhanh như vậy, khẽ kéo tay anh, “Thật ra, có cách làm dân chủ hơn là trước khi đi hãy trưng cầu ý kiến của cậu bé.”
Anh khẽ cười: “Sau khi hỏa tang cho Lâm Kha xong, trong nhà hỏi anh xem chôn cất ở đâu, nói là đã chọn được một mảnh đất để xây mộ. Nhưng sau đó anh vẫn đưa cô ấy tới đây, anh nghĩ là, nhập thổ vi an[3], đừng để cô ấy cảm thấy cô quạnh thì hơn. Rồi lại thường đưa Gia Minh tới thăm cô ấy, hồi bé thằng nhóc đâu có biết nghe lời như bây giờ, cứ gào khóc không chịu đi.” Nói xong, anh bước qua một bậc đá không bằng phẳng, đứng phía trước giơ tay ra đợi đỡ cô đi xuống: “Giờ anh đã hiểu, thật ra không phải lỗi tại nó, mà là tại anh. Bất cứ tình cảm gì, bao gồm cả nỗi nhớ, đều không nên bị ép buộc.”
[3] Vào đất là bình yên.
Đây chính là vấn đề mà anh vừa mới nghiền ngẫm rất kĩ lúc đứng trước tấm mộ bia. Có lẽ vì rằng tình yêu là câu đó phức tạp bậc nhất, đặc biệt với một quân nhân chuyên nghiệp đã quen lối tư duy logic theo đường thẳng như anh, vậy nên, anh vẫn đang tìm kiếm cho mình một đáp án. Chỉ là bỗng nhiên anh muốn thả lỏng một chút, với người khác, cũng là với chính bản thân mình.
Nghiêm Chân bỗng thấy bần thần vì những lời anh nói, cho đến khi thấy anh đưa tay ra cùng gương mặt mang nét cười hiền hòa. Thoáng chốc cô dường như thấy bản thân chìm vào nhịp cảm xúc của anh, chầm chậm đưa tay cho anh, thư thái trong lòng.
Đi tảo mộ về đã mấy ngày, bạn nhỏ Cố lại vẫn cứ buồn thiu. Sở Dao nhìn cậu phồng má lên, không kìm được đưa tay chọc chọc, thấy cậu không phản ứng lại, bèn cười hỏi Nghiêm Chân: “Nhóc con này hôm nay làm sao thế?”
Nghiêm Chân đang bận thu xếp quần áo, tranh thủ ngó ra nhìn cậu nhóc, cười: “Tại sắp phải đi học chứ còn gì nữa, bài về nhà chưa làm xong, đang phát rầu đấy ạ.”
“Chị thấy không chỉ mỗi thế thôi đâu.” Sở Dao tiếp tục trêu cậu nhóc, “Chắc hẳn là sắp về nhà rồi, lại phải xa bố rồi, đau lòng, đúng không?”
Cậu bé bị chọc trúng nỗi đau, trề môi xuống, rồi lại bò lăn ra một chỗ. Nghiêm Chân nhìn cậu, cười cười lắc đầu với Sở Dao. Sở Dao ngồi cạnh lặng yên nhìn Nghiêm Chân dọn dẹp một lúc, lại lên tiếng: “Nghiêm Chân này, chị thấy điều kiện của Hoài Việt đầy đủ từ lâu rồi, hai đứa vẫn xa cách đôi nơi thế nhỉ? Tuy là điều kiện ở đây hơi kém, nhưng nói gì thì nói thành phố B vẫn hơn là thành phố C. Với lại, có chế độ chính sách cho gia đình quân nhân định cư, bố trí chỗ ở cho các em cũng không thành vấn đề.”
“Chúng em vẫn chưa nghĩ được nhiều thế ạ.”
Sở Dao bật cười: “Nhóc con này lớn bằng ngần nào rồi mà còn không suy nghĩ, phải nghĩ đi!”
Nghiêm Chân nghe vậy mỉm cười, dòng suy nghĩ trôi đi xa. Đúng vậy, phải suy nghĩ thôi. Bất luận là theo đơn vị đến thành phố B hay là Cố Hoài Việt chuyện công tác về thì cả nhà có thể sống bên nhau mới là quan trọng nhất.
“Nghĩ gì đấy?”
Bỗng một bàn tay giơ ra trước mặt nhấc hành lý của cô lên, Nghiêm Chân giật nảy mình, hoàn hồn lại trừng mắt với người đi không tiếng động này: “Chị dâu đâu rồi, sao anh lại lên nhà?”
“Chị dâu đưa Gia Minh xuống dưới rồi.” Cố Hoài Việt liếc nhìn cô, ánh mắt mang ý cười, “Ngồi ngẩn ra đến đờ đẫn rồi kìa.”
Bị trêu chọc, mặt Nghiêm Chân ửng hồng, ngẩng đầu lên trừng mắt lườm anh, lại bị anh ôm lấy: “Đi nào, anh với em xuống lầu thôi.”
“Vâng.”
Hôm nay là ngày họ trở về thành phố C, thời gian trước thành phố B tuyết rơi suốt, hôm nay tiết trời bỗng đẹp lạ thường, nắng chiếu rọi làm người ta không sao mở mắt nổi. Nghiêm Chân xuống đến dưới lầu, thấy cậu nhóc đứng cạnh Sở Dao, mặt mày buồn tủi nhìn đến là thương. Nhưng hết cách rồi, dù có quyết định theo đơn vị đến thành phố B thì lúc này vẫn phải về nhà, vậy nên Nghiêm Chân gắng tươi cười thoải mái, cúi xuống xoa đầu cậu bé, “Không việc gì, sang năm chúng ta lại tới.”
Qua Rằm tháng Giêng, việc tập luyện ở đơn vị trở nên căng thẳng, nhưng Cố Hoài Việt vẫn dành thời gian đích thân lái xe đưa họ ra sân bay. Chuyến bay khởi hành lúc một giờ trưa, giờ mới có chín giờ, cũng coi như dư dả thời gian, anh giảm tốc độ cho xe chạy chậm lại.
Nghiêm Chân ngồi bên ghế phụ lái, thỉnh thoảng đánh mắt sang ngó nhìn anh. Chiều nay Cố Hoài Việt còn có cuộc họp, bàn về kế hoạch tăng cường chuẩn bị thao luyện cho năm sau của đơn vị. Nghiêm Chân cũng nói họ có thể tự đi được, bảo anh không cần tiễn, nhưng riêng chuyện này Cố Hoài Việt lại vô cùng cương quyết. Cô hiểu tâm tư của anh, anh sợ họ tủi thân, thế nhưng Nghiêm Chân không muốn, và cũng sẽ không oán trách anh, vì cô biết rằng anh không những là chồng cô mà còn là một người lính. Cô cũng dần quen với việc làm vợ của một người lính, quen với cách chia ly trong yên bình như vậy.
Chiếc xe chầm chậm lướt vào bãi đỗ, Cố Hoài Việt xách hành lý từ cốp sau xe ra, khi quay người lại nhìn thấy Nghiêm Chân và ông tướng con đều quàng khăn và đeo găng tay giống hệt nhau, đang đứng sau lưng anh lặng lẽ. Anh bỗng ý thức được lần chia xa này khác với hết thảy những lần ly biệt trước, bởi đây là lần đầu anh tiễn vợ cùng con đi. Cố Hoài Việt im lặng trong chốc lát, xoa đầu cậu bé Gia Minh nói: “Đi nào.”
Xếp hàng đổi vé xong, ba người đứng trong sảnh chờ. Cố Hoài Việt cúi đầu căn dặn bạn nhỏ Cố ngồi trên máy bay phải nghe lời Nghiêm Chân, cậu bé ủ rũ gật gù. Cố Hoài Việt nhìn bộ dạng này của cậu, lực búng lên đầu cậu cũng giảm nhẹ đi. Cậu nhóc lớn bằng ngần này, việc mà cậu không thích nhất, chính là chia xa. Anh ngẩng lên nhìn Nghiêm Chân, đưa vé máy bay cho cô.
Nghiêm Chân nhận lấy, cúi nhìn thời gian bay, nói với anh: “Anh bận thì cứ về trước đi, em sẽ đưa con về nhà an toàn.”
Cố Hoài Việt mỉm cười, chỉnh lại vành mũ: “Về đến nhà nhớ gọi điện báo anh.”
“Vâng.” Nghiêm Chân gật đầu, gắng gượng hé ra một nụ cười.
Còn anh chỉ ôm vai cô, muốn nói gì đó nhưng rồi lại thôi, “Vậy anh đi đây.” Từ đây về Sư đoàn mất ít nhất một tiếng, về đến nơi ăn được bữa cơm cũng tới giờ họp là vừa, quả thực anh rất bận. Anh ôm cậu nhóc, cũng ôm cả cô, vòng ôm không đủ chặt lại ngắn ngủi vội vàng, cô còn chưa cảm nhận được hơi ấm từ anh, anh đã xoay người rời đi.
Nhìn theo bóng lưng anh, cậu nhóc không nhịn được khẽ lầm bầm: “Cảm giác hôm nay thủ trưởng không giống bình thường chút nào.”
Nghe câu nói ấy, Nghiêm Chân chợt thấy lòng mình như bị ai siết lại, đau thắt. Cô mỉm cười, một tay dắt cậu bé một tay cầm sẵn vé để lên máy bay, cố gắng chế ngự bản thân mình đừng quay đầu nhìn lại, đừng kiếm tìm theo hình bóng anh. Nhưng chẳng được bao lâu, cô đã không nhịn được mà ngoái về phía sau, trông thấy anh đứng cách họ không quá xa, ánh mắt dõi theo hai người tiễn biệt.
Thấy cô ngoảnh lại ngóng nhìn, Cố Hoài Việt mỉm cười, đưa tay phải lên, chậm rãi làm một động tác chào theo nghi lễ quân đội. Đó là cách biểu đạt sự tôn trọng cao nhất trong lòng một người lính. Anh dành điều ấy cho cô. Nghiêm Chân vội vã quay đi, trong phút chốc, lệ tràn khóe mi.
Sở Dao là người nhà quân nhân lâu năm, nhìn đám đàn ông bận rộn đã thành quen, “Chị nói em nghe, mỗi lần chị đến, thời gian Lão Lưu ở bên chị gộp cả lại cũng chưa đến một ngày.”
Nghiêm Chân vừa giữ sợi len cho chị vừa hiếu kì hỏi: “Lão Lưu anh ấy không về nhà nghỉ ngơi hả chị?”
“Về chứ, ngủ như con heo chết trương, nói mười câu mà nghe được lão ấy ừ một tiếng đã là khá khẩm lắm rồi!”
Dứt lời liền nghe thấy một tràng cười vang giòn từ phía cửa vọng tới, theo sau là giọng nói to khỏe đặc trưng của Lão Lưu: “Này nhé, tụ tập ở đây lên án tôi đấy hả? Tôi đây không đi làm cách mạng nữa chắc?”
Sở Dao nguýt anh ta một cái: “Hôm nay về sớm thế?”
Lão Lưu cười: “Còn không về thì mình lại chả cách chức cái mạng của tôi đi ấy à.”
Thấy hai người không dễ gì có được thời gian trò chuyện, Nghiêm Chân tạm biệt ra về, chưa đến đầu ngã rẽ đã trông thấy Cố Hoài Việt đang đi tới. Cố Hoài Việt mặc bộ quân phục dùng khi thao luyện, đường như khắp người anh đều ngấm mùi khói súng, chẳng khác nào vừa từ nơi chiến trận trở về chứ không phải thao trường. Anh vừa đi vừa hạ mũ xuống gẩy gẩy mái tóc, nét mặt có vẻ thờ ơ. Lúc ngẩng đầu lên, ánh mắt hai người giao nhau, cả hai đều ngẩn ra một lúc. Cuối cùng vẫn là Nghiêm Chân không nhịn được bật cười. Từ lúc bắt đầu luyện tập, thời gian cô nhìn thấy anh ít đi hẳn, hôm nay khó khăn lắm mới có cơ hội gặp, không ngờ ai kia lại xuất hiện với dáng vẻ này. Cố Hoài Việt bị cô cười đến bối rối, giơ tay quẹt mũi cô: “Không được cười nữa.”
“Rõ!” Cô chớp chớp mắt, lại càng cười vui vẻ hơn, Cố Hoài Việt bất đắc dĩ híp mắt lại, khóe môi vô thức cong lên.
Về đến nhà, người bạn nhỏ đang bò ra bàn chép thành ngữ, khỏi cần hỏi, chuẩn là phạm lỗi rồi! Nhưng khác ở chỗ, người phạt cậu lần này là cô giáo Nghiêm trước nay vẫn bao che cho cậu.
Sáng nay, Nghiêm Chân dắt cậu đến chúc Tết ông Tịch Thiếu Phong và bà Chung Lê Anh, đúng lúc hai bạn nhỏ kia cũng ở đó. Nghiêm Chân bèn để Gia Minh ra chơi cùng hai bạn, kết quả là chưa được bao lâu đã làm cho con nhà người ta khóc toáng lên, hỏi nguyên do thì nói là bạn nhỏ kia thích khẩu súng của cậu, muốn mượn chơi, tiểu Tư lệnh Cố sống chết gì cũng không cho mượn.
“Bố con bảo rồi, người lính mà không thể giữ gìn cẩn thận vũ khí của mình thì không phải là người lính tốt, đến lính mà con còn làm không xong thì làm tướng quân thế nào được!”
Lời vừa thốt ra, ông Tịch Thiếu Phong đang đọc báo trong phòng khách cũng phải phá lên cười, khen ngợi cậu bé này có chí khí. Bà Chung Lê Anh cùng mẹ của hai bạn nhỏ kia đều tỏ ý không có chuyện gì. Nhưng suy cho cùng là Cố Gia Minh đã bắt nạt con người ta, Nghiêm Chân dù thế nào cũng phải biết ý, ngay tại chỗ liền nói rằng về nhà phạt cậu chép thành ngữ. Không ngờ vừa vào cửa nhà, anh bạn nhỏ đã quẩy mông tới trước bàn bò nhoài ra bắt đầu chép phạt.
Cố Hoài Việt liếc xéo cậu bé, nghe xong nguồn cơn câu chuyện, nói: “Đáng phạt.”
Anh bạn nhỏ vô cùng căm phẫn trước hành vi “dung túng” cho cô giáo Nghiêm của thủ trưởng, quay đầu lại, vung tay ngoáy mạnh lên trang giấy một câu thành ngữ:”Lang bối vi gian.[2]”
[2] Cấu kết với nhau làm việc xấu.
Khắp người bám đầy bụi đất, trước khi bữa tối được nấu xong, Cố Hoài Việt đi tắm rửa cho sạch sẽ. Hôm nay trước giờ thao luyện, Lưu Hướng Đông gọi một cuộc điện thoại lên Bộ Tư lệnh, nghe ý tứ của Chính ủy Quân khu – Giả Kỳ, đối với vấn đề điều Sư đoàn nào đi tham gia cuộc diễn tập sau Tết lần này vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều. Chung quy lại, những người trong Quân khu háo hức với chuyện này không chỉ có mình anh ta, cũng không chỉ riêng Sư đoàn của anh ta mới có bản lĩnh. Hiển nhiên Lưu Hướng Đông cũng hiểu được, cúp điện thoại xuống mà lo lắng trăm bề. Cố Hoài Việt an ủi anh ta, cứ coi như không vì mục đích chuẩn bị cho diễn tập thì việc huấn luyện trong đơn vị cũng không thể trì hoãn được. Hơn hết, trong lòng họ đều hiểu rõ mục đích của Thẩm Mạnh Xuyên là gì.
“Cậu nghĩ thoáng như thế thật đấy à?” Lưu Hướng Đông chọc anh, “Hoài Việt, nói thật lòng thì tôi chẳng có gì để mà trông đợi cả, tôi học hành chẳng đến đâu, các cụ có thiêng cũng chỉ phù hộ cho đi được đến tận đây thôi. Nhưng cậu thì khác, cậu còn trẻ, Phó Sư đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng, cậu không muốn tiến lên à?”
“Nói không muốn là nói dối.” Cố Hoài Việt buông bút xuống, ngồi trên chiếc ghế xoay vẻ suy tư, “Nhưng Lão Lưu, anh cũng biết quan hệ giữa em với Thẩm Mạnh Xuyên, chỉ cần ở chung một địa bàn là đối đầu nhau.”
Lão Lưu hiểu điều này, ở nơi tụ hội những kẻ tài ba lại cao ngạo, có ai chịu thua ai bao giờ. “Thế nên tôi mới cảm thấy lần này là một cơ hội tốt.”
Cố Hoài Việt trầm ngâm giây lát: “Đúng là như thế, nhưng cơ hội này đối với Thẩm Mạnh Xuyên mà nói có lẽ quan trọng hơn. Em không muốn sau này đến lúc đối đầu thì ngay đến cả một đối thủ xứng tầm cũng tìm không ra.”
Lời này nói ra, Lão Lưu thực sự nể phục anh. Khỏi phải nói, tính khí con người này quả là có nhiều khi cao ngạo ngất trời.
Cố Hoài Việt tắm rửa xong xuôi, lúc đi ra phòng ngoài thì Nghiêm Chân đã dọn cơm lên, còn làm món trứng lòng đào mà người bạn nhỏ thích ăn nhất. Tiểu Tư lệnh Cố đói lả suốt buổi chiều, vừa thấy ăn là thâm thù đại hận gì cũng quên sạch. Bộ dạng háu ăn này đến bố cậu nhìn cũng thấy khó coi, giơ ngón tay búng lên đầu cậu.
Xới cơm xong, ngồi xuống ghế Nghiêm Chân chợt nhớ tới một vấn đề. Mấy ngày nữa Gia Minh phải đi học, nhưng đến giờ anh vẫn chưa nhắc gì tới chuyện tảo mộ Lâm Kha, không lẽ là vì cô?
Nghĩ tới đó, Nghiêm Chân đặt đũa xuống ướm hỏi anh: “Hoài Việt, năm nay không đi tảo mộ sao?”
Đôi đũa trong tay Cố Hoài Việt khựng lại, nhìn cô kinh ngạc. Nghiêm Chân cố gắng nở một nụ cười thật chuẩn mực: “Em nghe Gia Minh nói, năm nào anh cũng đi tảo mộ Lâm Kha. Năm nay không đi à?”
“Có đi.” Lúc lâu sau, Cố Hoài Việt trả lời.
Nghiêm Chân đáp lại một tiếng rồi cúi đầu ăn cơm, bữa cơm dường như không còn mùi vị. Lúc rửa bát cô ủ rũ vô cùng, rõ ràng đã nghĩ thông suốt, thế mà nghe thấy anh nói đi thì bế tắc lại hoàn bế tắc, thật không ra gì! Đang ngẫm nghĩ thì tay cô bỗng nhiên trống trải, chiếc bát đang rửa được người ta đón lấy. Nghiêm Chân giật mình hốt hoảng, nghiêng đầu lại, nhìn thấy Cố Hoài Việt, liền thở phào: “Anh làm em hết hồn, em còn tưởng làm vỡ bát rồi chứ.”
Anh mỉm cười nghe cô trách móc: “Tại em nghĩ ngợi nhập tâm quá đấy.”
Bị khơi đúng tâm sự Nghiêm Chân không nói không rằng, có một quãng chỉ nghe thấy tiếng nước chảy róc rách. Lúc sau, Cố Hoài Việt lên tiếng phá vỡ sự im lặng: “Đừng nghĩ nữa. Chúng ta sẽ cùng đi.”
“Dạ?” Lần này đến lượt cô ngỡ ngàng.
Anh rửa sạch tay, lau khô rồi ôm vai cô: “Anh không muốn trong lòng em có nút thắt. Thế nên chúng mình sẽ cùng đi.” Anh không muốn lúc anh đưa Gia Minh đi tảo mộ Lâm Kha, cô ngồi ở nhà nghĩ đông nghĩ tây, cô không thích nghĩ ngợi lung tung, làm thế khiến cô không thấy vui, vậy thì anh sẽ không để cô phải nghĩ ngợi, tự tay anh tháo nút thắt ấy ra cho cô. Muốn tháo chuông phải cần đến người buộc chuông, đạo lý này anh hiểu.
Nghiêm Chân có phần xúc động, trên gương mặt thoáng nở nụ cười: “Vâng.”
Thứ bảy, Cố Hoài Việt dành thời gian đưa Nghiêm Chân và bé Gia Minh cùng đến Kinh Sơn.
Phần mộ của Lâm Kha nằm trong khu nghĩ trang ở Kinh Sơn, vì vừa có một trận tuyết lớn nên xe chạy đến chân núi thì không đi lên được nữa. Vậy nên Cố Hoài Việt đậu xe phía dưới, đi bộ lên trên. Nghiêm Chân chưa từng đến Kinh Sơn, nay nhìn ngắm cảnh núi non trong tuyết, ngoài cảm giác se se lạnh thì trong lòng lại thấy bình tĩnh lạ lùng.
Nghiêm Chân không biết gì nhiều về Lâm Kha. Lúc đầu vội vàng đăng ký kết hôn, có thể nói là cô gần như không hề nhớ tới người này. Sau khi kết hôn, có lẽ là bởi kị húy nên người nhà họ Cố cũng không bao giờ nhắc tới Lâm Kha trước mặt cô. Vậy nên đừng nói là biết đến, đến một tấm ảnh cô cũng chưa từng thấy. Sau này vẫn là lời nói của cậu bé nhắc nhở cô, nhắc nhở cô trên đời này ngoài bản thân cô ra, vẫn còn một người, có quan hệ thân mật với người đàn ông bên cạnh cô. Nghĩ đến đó, cô bất giác đưa mắt nhìn Cố Hoài Việt, đúng lúc anh ngoảnh lại, mỉm cười với cô: “Đến rồi.”
Ba dãy mộ thưa thớt. Lâm Kha, được chôn cất ở đây.
Nghiêm Chân hít sâu một hơi, đi theo sau Cố Hoài Việt, chậm rãi bước vào trong. Kỳ thực trên đường đi tới, Nghiêm Chân từng vẽ ra dáng hình Lâm Kha trong tưởng tượng. Vì Cố Hoài Việt nói cô ấy là tiểu công chúa được mọi người yêu chiều, vậy thì cô nghĩ chắc hẳn cô ấy phải giống như ánh mặt trời rực rỡ, trẻ trung phơi phới, dẫu cho nụ cười có mang vẻ ngạo mạn, kiêu sa cũng không làm người ta chán ghét, giống như Thẩm Mạnh Kiều vậy. Xuất thân tốt, gia cảnh tốt, số mệnh từ khi sinh ra đã là con cưng vàng ngọc.
Nhưng đến khi thực sự nhìn thấy, lại cảm giác không hề giống như vậy. Nghiêm Chân đứng trước mộ bia Lâm Kha, nhìn tấm ảnh được khắc trên bia, có một sự bất ngờ trong thoáng chốc. Vì người con gái trong bức ảnh kia có nét sầu thương không thể xóa nhòa, quá rõ rệt, rõ đến mức cô chừng như không có cách nào coi như không thấy. Nhưng rất nhanh cô lại thấy thoải mái, thực ra, cho dù ông trời đã ban tặng cho Lâm Kha nhiều đến thế thì cô ấy cũng chỉ là một người đáng thương, vì thứ mà cô ấy mong muốn nhất chưa bao giờ thuộc về cô ấy cả.
Khoảnh khắc này, Nghiêm Chân chợt nhớ lại chính mình, thuở ấu thơ cô vẫn còn cưỡi trên vai bố vui cười như một đứa trẻ ngây ngô, thế mà chớp mắt đã bế trên tay một bức ảnh được đóng khung, bà nội bảo, đó gọi là di ảnh. Người đã qua đời thì bức ảnh ấy mới có thể được gọi là di ảnh. Xem ra, trên đời này, vốn chẳng thiếu những chuyện khiến cho thế giới của con người ta bỗng chốc trời nghiêng đất ngả, điều quan trọng là liệu bản thân mình có chống đỡ được hay không. Cô đã một mình chống đỡ, nhưng còn người con gái này thì sao? Cô ấy tìm đến một người thông minh nhất, lại cũng ngốc nghếch nhất để ở bên cô ấy. Điều này khiến cô vừa khó chịu, lại có chút…. Ngưỡng mộ.
Cố Hoài Việt đứng yên trước bia mộ, cũng lặng lẽ nhìn bức ảnh in trên phiến đá, đôi mắt của người trong ảnh lặng trầm như nước, nụ cười nhàn nhạt hững hờ, nỗi u sầu đậm sâu trên gương mặt. Thực ra, cô ấy cười rất đẹp, nhưng đối diện với anh, cô ấy chẳng mấy khi cười, như thể nhìn vào giữa khoảng không vô hạn, một đôi mắt chẳng bao giờ phô bày được cảm xúc. Kỳ thực anh từng thấy khó hiểu, tuổi trẻ của anh đã sống trong những ngày tháng đầy tự hào, anh không hiểu tại sao cô ấy lại nhìn xuyên qua anh mà trông ra một người khác, khiến cho lòng kiêu hãnh của anh bị thách thức. Sau đó rất lâu anh mới ngẫm được ra, họ đều yêu thương cô ấy, nhưng vì con người khác biệt nên ý nghĩa của sự thương yêu cũng khác hẳn nhau.
Anh và Hoài Ninh quả thực không giống nhau. Tình yêu thương lớn nhất Hoài Ninh dành cho cô ấy là buông bỏ ra đi, không yêu nên sẽ không cho cô ấy bất cứ niềm hy vọng nào. Còn cách mà anh thương cô ấy là cùng cô ấy kết hôn, cưng chiều cô ấy, để cô ấy được sống cuộc đời hạnh phúc như trước nay vẫn vậy, cho đến một ngày cô ấy nói với mình đó không phải là yêu. Chuyện này khiến anh cười ra nước mắt, cùng lúc lại khiến anh lạc lối vào miên man.
“Bố ơi!” giọng nói lanh lảnh của cậu bé kéo thần trí anh quay trở lại. Cố Hoài Việt xoay người, xoa đầu cậu bé, đón lấy bó hoa bách hợp trắng muốt trong tay cậu. Lại nhìn Nghiêm Chân, hai người nhìn nhau cười, anh khom người, đặt bó hoa xuống trước mộ phần. Đứng thẳng, lại thực hiện một động tác chào chuẩn mực. Xong xuôi hết cả, anh quay lại nhìn Nghiêm Chân và Cố Gia Minh, nói: “Đi nào.”
Nghiêm Chân hướng về anh mỉm cười: “Vâng.”
Đường khi về dễ đi hơn con đường lúc tới, cậu bé Cố Gia Minh tung tăng đi trước, thỉnh thoảng quay đầu lại vẫy tay gọi họ. Nỗi buồn trẻ con chẳng kéo dài lâu, ra khỏi mảnh đất trầm mặc khói hương kia, nét mặt đã giống như trời quang mấy tạnh trong xanh trở lại. Cố Hoài Việt nhìn theo bóng lưng cậu bé, mỉm cười, “Nghiêm Chân, có lúc anh nghĩ, năm nào cũng đưa Gia Minh đến đây, có phải là không hay lắm không.”
Nghiêm Chân nghe anh nói vậy ngây ra một lúc: “Tại sao?”
“Anh luôn thấy mừng vì Gia Minh là một đứa trẻ vui tươi hoạt bát, thằng bé không có ấn tượng gì về việc mẹ nó qua đời nên cũng không cảm thấy buồn bã. Còn anh thì cứ bắt nó phải nhớ lại, liệu như thế có tốt cho nó không?”
Anh nghiêng đầu sang nhìn, muốn xin ý kiến của cô. Nghiêm Chân lại im lặng nhìn anh, không nói. Cố Hoài Việt hiểu, hiểu rằng vấn đề của mình làm khó cho cô, anh không hỏi thêm nữa, nắm lấy bàn tay cô đang nhét trong túi áo, cảm giác ấm nồng khiến anh không kìm được mà siết chặt lại: “Anh biết rồi, sau này không làm thế nữa.”
Nghiêm Chân không ngờ anh lại có được đáp án nhanh như vậy, khẽ kéo tay anh, “Thật ra, có cách làm dân chủ hơn là trước khi đi hãy trưng cầu ý kiến của cậu bé.”
Anh khẽ cười: “Sau khi hỏa tang cho Lâm Kha xong, trong nhà hỏi anh xem chôn cất ở đâu, nói là đã chọn được một mảnh đất để xây mộ. Nhưng sau đó anh vẫn đưa cô ấy tới đây, anh nghĩ là, nhập thổ vi an[3], đừng để cô ấy cảm thấy cô quạnh thì hơn. Rồi lại thường đưa Gia Minh tới thăm cô ấy, hồi bé thằng nhóc đâu có biết nghe lời như bây giờ, cứ gào khóc không chịu đi.” Nói xong, anh bước qua một bậc đá không bằng phẳng, đứng phía trước giơ tay ra đợi đỡ cô đi xuống: “Giờ anh đã hiểu, thật ra không phải lỗi tại nó, mà là tại anh. Bất cứ tình cảm gì, bao gồm cả nỗi nhớ, đều không nên bị ép buộc.”
[3] Vào đất là bình yên.
Đây chính là vấn đề mà anh vừa mới nghiền ngẫm rất kĩ lúc đứng trước tấm mộ bia. Có lẽ vì rằng tình yêu là câu đó phức tạp bậc nhất, đặc biệt với một quân nhân chuyên nghiệp đã quen lối tư duy logic theo đường thẳng như anh, vậy nên, anh vẫn đang tìm kiếm cho mình một đáp án. Chỉ là bỗng nhiên anh muốn thả lỏng một chút, với người khác, cũng là với chính bản thân mình.
Nghiêm Chân bỗng thấy bần thần vì những lời anh nói, cho đến khi thấy anh đưa tay ra cùng gương mặt mang nét cười hiền hòa. Thoáng chốc cô dường như thấy bản thân chìm vào nhịp cảm xúc của anh, chầm chậm đưa tay cho anh, thư thái trong lòng.
Đi tảo mộ về đã mấy ngày, bạn nhỏ Cố lại vẫn cứ buồn thiu. Sở Dao nhìn cậu phồng má lên, không kìm được đưa tay chọc chọc, thấy cậu không phản ứng lại, bèn cười hỏi Nghiêm Chân: “Nhóc con này hôm nay làm sao thế?”
Nghiêm Chân đang bận thu xếp quần áo, tranh thủ ngó ra nhìn cậu nhóc, cười: “Tại sắp phải đi học chứ còn gì nữa, bài về nhà chưa làm xong, đang phát rầu đấy ạ.”
“Chị thấy không chỉ mỗi thế thôi đâu.” Sở Dao tiếp tục trêu cậu nhóc, “Chắc hẳn là sắp về nhà rồi, lại phải xa bố rồi, đau lòng, đúng không?”
Cậu bé bị chọc trúng nỗi đau, trề môi xuống, rồi lại bò lăn ra một chỗ. Nghiêm Chân nhìn cậu, cười cười lắc đầu với Sở Dao. Sở Dao ngồi cạnh lặng yên nhìn Nghiêm Chân dọn dẹp một lúc, lại lên tiếng: “Nghiêm Chân này, chị thấy điều kiện của Hoài Việt đầy đủ từ lâu rồi, hai đứa vẫn xa cách đôi nơi thế nhỉ? Tuy là điều kiện ở đây hơi kém, nhưng nói gì thì nói thành phố B vẫn hơn là thành phố C. Với lại, có chế độ chính sách cho gia đình quân nhân định cư, bố trí chỗ ở cho các em cũng không thành vấn đề.”
“Chúng em vẫn chưa nghĩ được nhiều thế ạ.”
Sở Dao bật cười: “Nhóc con này lớn bằng ngần nào rồi mà còn không suy nghĩ, phải nghĩ đi!”
Nghiêm Chân nghe vậy mỉm cười, dòng suy nghĩ trôi đi xa. Đúng vậy, phải suy nghĩ thôi. Bất luận là theo đơn vị đến thành phố B hay là Cố Hoài Việt chuyện công tác về thì cả nhà có thể sống bên nhau mới là quan trọng nhất.
“Nghĩ gì đấy?”
Bỗng một bàn tay giơ ra trước mặt nhấc hành lý của cô lên, Nghiêm Chân giật nảy mình, hoàn hồn lại trừng mắt với người đi không tiếng động này: “Chị dâu đâu rồi, sao anh lại lên nhà?”
“Chị dâu đưa Gia Minh xuống dưới rồi.” Cố Hoài Việt liếc nhìn cô, ánh mắt mang ý cười, “Ngồi ngẩn ra đến đờ đẫn rồi kìa.”
Bị trêu chọc, mặt Nghiêm Chân ửng hồng, ngẩng đầu lên trừng mắt lườm anh, lại bị anh ôm lấy: “Đi nào, anh với em xuống lầu thôi.”
“Vâng.”
Hôm nay là ngày họ trở về thành phố C, thời gian trước thành phố B tuyết rơi suốt, hôm nay tiết trời bỗng đẹp lạ thường, nắng chiếu rọi làm người ta không sao mở mắt nổi. Nghiêm Chân xuống đến dưới lầu, thấy cậu nhóc đứng cạnh Sở Dao, mặt mày buồn tủi nhìn đến là thương. Nhưng hết cách rồi, dù có quyết định theo đơn vị đến thành phố B thì lúc này vẫn phải về nhà, vậy nên Nghiêm Chân gắng tươi cười thoải mái, cúi xuống xoa đầu cậu bé, “Không việc gì, sang năm chúng ta lại tới.”
Qua Rằm tháng Giêng, việc tập luyện ở đơn vị trở nên căng thẳng, nhưng Cố Hoài Việt vẫn dành thời gian đích thân lái xe đưa họ ra sân bay. Chuyến bay khởi hành lúc một giờ trưa, giờ mới có chín giờ, cũng coi như dư dả thời gian, anh giảm tốc độ cho xe chạy chậm lại.
Nghiêm Chân ngồi bên ghế phụ lái, thỉnh thoảng đánh mắt sang ngó nhìn anh. Chiều nay Cố Hoài Việt còn có cuộc họp, bàn về kế hoạch tăng cường chuẩn bị thao luyện cho năm sau của đơn vị. Nghiêm Chân cũng nói họ có thể tự đi được, bảo anh không cần tiễn, nhưng riêng chuyện này Cố Hoài Việt lại vô cùng cương quyết. Cô hiểu tâm tư của anh, anh sợ họ tủi thân, thế nhưng Nghiêm Chân không muốn, và cũng sẽ không oán trách anh, vì cô biết rằng anh không những là chồng cô mà còn là một người lính. Cô cũng dần quen với việc làm vợ của một người lính, quen với cách chia ly trong yên bình như vậy.
Chiếc xe chầm chậm lướt vào bãi đỗ, Cố Hoài Việt xách hành lý từ cốp sau xe ra, khi quay người lại nhìn thấy Nghiêm Chân và ông tướng con đều quàng khăn và đeo găng tay giống hệt nhau, đang đứng sau lưng anh lặng lẽ. Anh bỗng ý thức được lần chia xa này khác với hết thảy những lần ly biệt trước, bởi đây là lần đầu anh tiễn vợ cùng con đi. Cố Hoài Việt im lặng trong chốc lát, xoa đầu cậu bé Gia Minh nói: “Đi nào.”
Xếp hàng đổi vé xong, ba người đứng trong sảnh chờ. Cố Hoài Việt cúi đầu căn dặn bạn nhỏ Cố ngồi trên máy bay phải nghe lời Nghiêm Chân, cậu bé ủ rũ gật gù. Cố Hoài Việt nhìn bộ dạng này của cậu, lực búng lên đầu cậu cũng giảm nhẹ đi. Cậu nhóc lớn bằng ngần này, việc mà cậu không thích nhất, chính là chia xa. Anh ngẩng lên nhìn Nghiêm Chân, đưa vé máy bay cho cô.
Nghiêm Chân nhận lấy, cúi nhìn thời gian bay, nói với anh: “Anh bận thì cứ về trước đi, em sẽ đưa con về nhà an toàn.”
Cố Hoài Việt mỉm cười, chỉnh lại vành mũ: “Về đến nhà nhớ gọi điện báo anh.”
“Vâng.” Nghiêm Chân gật đầu, gắng gượng hé ra một nụ cười.
Còn anh chỉ ôm vai cô, muốn nói gì đó nhưng rồi lại thôi, “Vậy anh đi đây.” Từ đây về Sư đoàn mất ít nhất một tiếng, về đến nơi ăn được bữa cơm cũng tới giờ họp là vừa, quả thực anh rất bận. Anh ôm cậu nhóc, cũng ôm cả cô, vòng ôm không đủ chặt lại ngắn ngủi vội vàng, cô còn chưa cảm nhận được hơi ấm từ anh, anh đã xoay người rời đi.
Nhìn theo bóng lưng anh, cậu nhóc không nhịn được khẽ lầm bầm: “Cảm giác hôm nay thủ trưởng không giống bình thường chút nào.”
Nghe câu nói ấy, Nghiêm Chân chợt thấy lòng mình như bị ai siết lại, đau thắt. Cô mỉm cười, một tay dắt cậu bé một tay cầm sẵn vé để lên máy bay, cố gắng chế ngự bản thân mình đừng quay đầu nhìn lại, đừng kiếm tìm theo hình bóng anh. Nhưng chẳng được bao lâu, cô đã không nhịn được mà ngoái về phía sau, trông thấy anh đứng cách họ không quá xa, ánh mắt dõi theo hai người tiễn biệt.
Thấy cô ngoảnh lại ngóng nhìn, Cố Hoài Việt mỉm cười, đưa tay phải lên, chậm rãi làm một động tác chào theo nghi lễ quân đội. Đó là cách biểu đạt sự tôn trọng cao nhất trong lòng một người lính. Anh dành điều ấy cho cô. Nghiêm Chân vội vã quay đi, trong phút chốc, lệ tràn khóe mi.
/49
|