Họa Quốc

Chương 20: Hồi Thứ Hai Mươi: Tân tướng

/27


Trên thế gian này có một cụm từ, gọi là “Thiên đạo nhân sự”.

Thiên đạo nhân sự không thể trái lại, tức là phải thuận theo đại thế.

Nhìn lại quá khứ, chẳng qua cũng chỉ là một câu thành ngữ bình thường, hiểu nó rồi liền gác qua một bên. Có rất nhiều rất nhiều câu thành ngữ trên đời, nhưng trong đờỉ một con người có thể thực sự trải nghiệm, kỳ thực lại rất ít rất ít.

Nhưng khi Khương Trầm Ngư đọc được sớ từ quan đề tên “Khương Trọng” đó, thứ đầu tiên bật ra trong đầu là cụm từ – thiên đạo nhân sự.

Sau khi Họa Nguyệt thuận lợi sinh hạ Tân Dã, mẹ tròn con vuông, lại có một việc khó đã từng làm khó nàng từ lâu bỗng tự động được giải quyết, không còn tồn tại nữa.

Nhưng so với Họa Nguyệt, trên thực tế, Khương Trọng mới là vướng mắc của nàng. Bởi vì, đối với Khương Họa Nguyệt, Khương Trầm Ngư chỉ có thương xót và trân trọng, cho dù Họa Nguyệt có đố kỵ nàng, oán hận nàng đến đâu, đó đều là tình cảm của một mình Họa Nguyệt, Khương Trọng lại không giống vậy. Đối với phụ thân sinh ra nàng nuôi nấng nàng dạy dỗ nàng, dốc vô số tâm huyết cũng gửi gắm rất nhiều hy vọng vào nàng, tình cảm của Khương Trầm Ngư cực kỳ phức tạp.

Một mặt, nàng chán ghét nhân cách của ông, chính là “đạo bất đồng bất tương vi mưu”(1), Khương Trầm Ngư nàng không thể mù quáng nghe theo, tức đã định họ không thể là người đi chung đường.

Nhưng mặt khác, cốt nhục chí thân, rốt cuộc không thể nói cắt đứt là cắt đứt, nói mỗi người một ngả là có thể mỗi người một ngả được.

Vì thế, xử lý cha của mình như thế nào đã trở thành việc khiến nàng đau đầu nhất. Tuy nàng cũng từng nói hết thảy đều làm theo phép công, nhưng sự thực khi bắt tay vào, lại vô cùng khó khăn, huống hồ có một số chuyện không phải xảy ra rồi thì có thể bỏ qua hoàn toàn, ví dụ như Đỗ Quyên.

Chuyện ở Hồi thành kết thúc, tuy Khương Trọng đã tìm được một cơ hội để triệu Vệ Ngọc Hành về đế đô và Đỗ Quyên cũng cùng hắn quay về, nhưng Khương Trọng vẫn không nhận đứa con gái này, thân phận của Đỗ Quyên vẫn không được thừa nhận. Khương Trầm Ngư vỗn dĩ còn phiền não vì chuyện này, nhưng khi nàng đến Vệ phủ thăm Đỗ Quyên, lại phát hiện đương sự là Đỗ Quyên trái lại nghĩ rất thoáng, lý do là “Chuyện đau khổ như thế, thêm một người biết là thêm một người chịu tội. Tỉ đã rất bất hạnh rồi, nhưng chí ít tỉ còn có thể giúp mẫu thân, người bị che mắt bịt tai, không hề có lỗi lầm gì trong chuyện này có thể tránh được sự đau khổ này. Cho nên, tỉ không thể nhận tổ quy tông được, tỉ cũng không muốn nhận tổ quy tông”.

“Thế sau này tỉ định thế nào? Lẽ nào cứ sống thế này?”.

Đôi mắt không có chút ánh sáng của Đỗ Quyên chiếu thẳng nàng, cuối cùng mỉm cười: “Tỉ sẽ không ngừng báo thù. Tỉ ở đây, không đi đâu cả, sau đó, tìm từng cơ hội có thể để lật đổ Khương Trọng. Cho dù không báo được thù, tỉ cũng phải căm ghét ông ta, để ông ta cắn rứt, để ông ta đau đầu, để ông ta lúc nào cũng nhớ – ông ta đã từng làm bao nhiêu chuyện bỉ ổi như thế”.

Đó chính là lựa chọn của Đỗ Quyên.

Khương Trầm Ngư cảm thấy kỳ thực Đỗ Quyên không nói thực lòng, nhưng hỏi thêm cũng không ra được nguyên cớ, nên đành từ bỏ.

Có lẽ, so với bản thân nàng, tình cảm Đỗ Quyên dành cho phụ thân còn phức tạp hơn nhiều.

Bây giờ, Khương Trầm Ngư ngồi dưới đèn, cầm quyển tấu sớ này, đọc rất lâu rất lâu, cuối cùng ngẩng đầu, hạ lệnh:

“Tuyên hữu tướng”.

La Hoành lập tức đi ra tuyên chỉ: “Hoàng hậu tuyên hữu tướng yết kiến”.

Lát sau, Khương Trọng chậm rãi đi vào thư phòng: “Lão thần tham kiến hoàng hậu, thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế”.

“Thừa tướng có thể nói rõ lý do từ quan không?”. Khương Trầm Ngư đưa quyển tấu sớ lại cho ông.

Khương Trọng không đưa tay ra nhận, vẫn khom lưng nói: “Tất cả đều đã nói trong tấu sớ”.

“Thừa tướng đang tuổi tráng niên, lại là lúc cống hiến tốt nhất cho đất nước, sao có thể nói là chán ghét phân tranh, xin được quy ẩn chứ?”.

Khương Trọng ngẩng đầu chăm chú nhìn nàng, lúc sau, nhẹ nhàng mỉm cười: “Hoàng hậu đang hoài nghi lão thần? Hoàng hậu cảm thấy lão thần đang lùi để tiến? Hoặc là có mưu đồ khác?”.

Khương Trầm Ngư không nói gì, chỉ là ánh mắt trở nên sâu thẳm.

Khương Trọng ngưng cười, trên gương mặt hiện vẻ cô đơn, thở dài một tiếng: “Hoàng hậu, có thể cho người bên cạnh lui ra hết không?”.

Khương Trầm Ngư im lặng một lát, hạ lệnh: “Ta và hữu tướng có chuyện cần bàn, các ngươi lui hết cả đi”.

Cung nhân vâng dạ lui ra. Thư phòng rộng lớn, trong nháy mắt đã trở nên lạnh lẽo. Ánh sáng của cung đăng cũng không còn sáng rỡ như bình thường, nhìn chỉ cảm thấy âm u tối tăm.

Mà trong bóng tối trùng trùng ấy, tấm thân cao gầy của Khương Trọng nhìn hơi còng xuống, nhìn kỹ lại, tóc mai cũng đã bạc đi không ít.

Phụ thân già rồi…

Khương Trầm Ngư bỗng phát hiện ra, trong khoảng thời gian nàng đối xử lạnh nhạt với ông, phụ thân đã mau chóng già đi, mới chưa đầy một năm, mà dường như đã già đi mười tuổi.

“Trầm Ngư…”. Trong lúc nàng im lặng dò xét, Khương Trọng từ tốn nói: “Mẫu thân của con, bà ấy… sắp không ổn rồi”.

“Cái gì?”. Khương Trầm Ngư chấn động đến mức lập tức đứng bật dậy.

“Con đừng vội, ngồi xuống, từ từ nghe ta nói”.

Khương Trầm Ngư lại chầm chậm ngồi xuống, một cánh tay không kìm được ôm ngực, cảm thấy trái tim của mình, không chịu nghe lời, đập lên điên cuồng.

“Mẫu thân con vốn không khỏe mạnh. Từ năm ngoái, thường xuyên cảm thấy đau đầu, nhưng nghỉ ngơi một lúc là khỏi, vì thế không quá bận tâm. Nhưng tháng trước, bệnh đau đầu của bà ấy lại tái phát, rồi rơi vào trạng thái hôn mê, ta đã mời danh y ở kinh thành đến chữa trị cho bà ấy, họ đều nói bệnh đau đầu của bà ấy rất nghiêm trọng, cần phải uống thuốc gây mê, lại dùng dao sắc mổ đầu ra lấy máu đọng bên trong ra mới có thể chữa khỏi. Nhưng cách này cực kỳ mạo hiểm, nếu có chút sai sót là chết ngay tức khắc. Cho nên, mẫu thân con sao có thể chịu chữa trị”.

“Sự việc nghiêm trọng như thế, tại sao giờ cha mới nói”. Khương Trầm Ngư lại đứng bật dậy lần nữa.

Khương Trọng cười cười, trong nụ cười ấy chứa đựng sự chua xót, sự bối rối, sự ngậm ngùi, còn có cả bao dung: “Con nắm quyền chưa lâu, căn cơ chưa ổn định, một ngày phải xử lý trăm việc, mẫu thân sợ con phân tâm, cho nên, không chịu cho ta nói với con”.

Lại là… lỗi của mình ư?

Khoảng thời gian này, nàng có quá nhiều việc, quá nhiều quyết sách, quá nhiều hành động… nhưng, nhiều việc như vậy, nhiều quyết sách như vậy, nhiều hành động như vậy đều không liên quan đến mẫu thân.

Hay nói cách khác, nàng chỉ để ý đến bản thân để ý đến tỉ tỉ để ý đến người trong lòng thậm chí để ý đến thiên hạ, nhưng lại bỏ sót mẫu thân của mình.

Trời ơi… trời ơi… trời ơi… cú sốc này quả thực không nhỏ, khiến cho toàn thân Khương Trầm Ngư run lên bần bật, buộc nàng phải bấu chặt vào thư án mới có thể chống đỡ cơ thể gắng gượng mà đứng được.

Mắt Khương Trọng loang loáng ánh lệ, ông thấp giọng nói: “Trầm Ngư, cha con đích thực không phải là người tốt, cả đời mê đắm quyền thế, vì lợi ích của cả gia tộc mà hy sinh cả con gái dứt ruột đẻ ra, nhưng., ta thật sự… yêu mẫu thân của con. Quyền thế có thể nói quan trọng hơn tất cả mọi thứ của ta; nhưng mẫu thân của con… lại là sinh mệnh của ta. Con có thể hiểu không?”.

Khương Trầm Ngư ra sức lắc đầu nguầy nguậy. Đúng thế, cả đời của phụ thân làm sai rất nhiều rất nhiều việc, nhưng duy chỉ đối với mẫu thân là chung thủy nặng tình.

“Cho nên… chúng ta đều sai rồi, chẳng phải sao? Nếu sớm biết mẫu thân con gặp đại hạn, cùng lắm chỉ có thể sống thêm ba năm, trước đây ta huấn luyện tử sĩ, triệt hạ đối thủ, tranh đoạt lợi ích để làm gì? Tốn bao thời gian để làm những chuyện vô dụng đó, mà không ở nhà với bà ấy, còn nổi giận với con gái của mình, khiến mẫu thân con kẹt ở giữa khó xử, bạc thêm bao nhiêu tóc…”.

Nước mắt Khương Trầm Ngư bỗng chốc lăn trào, xấu hổ bưng mặt.

“Cho nên, ta quyết định từ bỏ tất cả, ba năm còn lại đều ở bên cạnh mẫu thân con. Bình sinh chuyện bà ấy tiếc nuối nhất chính là vì thân phận nên không được ra ngoài, không thể ngao du danh sơn trong thiên hạ, nếm hết mỹ thực của nhân gian. Ta quyết định trong ba năm này sẽ bù đắp hết những điều bà ấy nuối tiếc”.

Khương Trầm Ngư run giọng nói: “Phụ thân… cha muốn đi xa?”.

“Ừ”.

“Cha… muốn đưa mẫu thân cùng đi? Đi liền ba năm?”. Khương Trầm Ngư cuống lên: “Phụ thân đưa mẫu thân đi, thế con, con phải làm thế nào?”.

“Chúng ta thỉnh thoảng sẽ về thăm các con”.

“Nhưng…”.

Khương Trọng ngắt lời nàng: “Trầm Ngư, con… không còn là một đứa trẻ nữa”.

Khương Trầm Ngư chấn động.

Khương Trọng chăm chú nhìn nàng, giọng nói dịu dàng mà đau buồn: “Trên người con mặc phượng bào của hoàng hậu; trên bàn con bày ngọc tỉ của Bích quốc… Con không còn là một đứa trẻ nữa”.

“Cho nên, con không có quyền ở bên cạnh mẫu thân phải không?”. Khương Trầm Ngư giàn giụa nước mắt hỏi.

“Trầm Ngư, hãy để mẫu thân con vui vẻ một chút đi. Bà ấy đã bên cạnh con mười lăm năm rồi, chẳng phải sao?”.

Trái tim Khương Trầm Ngư chìm xuống. Cùng với đó là cảm giác bi thương sâu thăm thẳm ùa đến, là cảm giác chán ghét quen thuộc – chán ghét bản thân mình – Nàng… lại bắt đầu ích kỷ rồi. Vĩnh viễn chỉ nghĩ đến cảm giác của bản thân, cho nên, khi phụ thân nói muốn đưa mẫu thân đi du ngoạn, phản ứng đầu tiên chính là không được, như thế chẳng phải mình không được gặp mẫu thân sao, nhưng không hề đứng ở lập trường của mẫu thân mà suy nghĩ: Bà mong muốn có thể ngao du sơn thủy, mong muốn suốt cả một đời. Đến phụ thân, người chỉ chăm chăm đến quyền thế đến mức có thể hy sinh con gái của mình, không quan tâm đến hạnh phúc của cốt nhục, cũng bằng lòng từ bỏ quyền lực mà ông khổ tâm lăn lộn một đời mới có được vì mẫu thân, lẽ nào mình, kẻ được gọi là đứa con ngoan nhất, hiếu thuận nhất, chưa từng khiến mẫu thân phải nổi giận dù chỉ một lần, còn không bằng phụ thân sao?

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, nhìn phụ thân đứng cách nàng một trượng, không biết nói gì, chỉ cầm chiếc ấn ngọc tỉ trên thư án lên, chậm rãi, nặng nề, đóng lên trên tấu chương.

Bụi trần lắng đọng.

Vương ấn đỏ thắm.

Mùa thu năm Đồ Bích thứ sáu, hữu tướng cáo lão, từ quan về quê. Hoàng hậu khóc phê chuẩn.

Ngày hôm sau, tân tướng được lập, là Băng Ly công tử – Tiết Thái.

“Thư sinh gần đây rất không chịu an phận”.

Trong Bách Ngôn đường, người áo xanh lục phe phẩy quạt thong thả nói.

Sáu người còn lại vừa nghe thấy đều bật cười, cười rất kỳ lạ.

Khương Trầm Ngư đang phê duyệt tấu chương nghe tiếng ngẩng đầu, không hiểu, hỏi: “Có chuyện gì?”.

Người áo xanh lục cuối cùng đã gây được sự chú ý của hoàng hậu, liền vội vàng gấp quạt lại hồi bẩm: “Hoàng hậu nương nương có biết vì sao mấy ngày nay Tiết tướng đều không đến tham gia nghị sự với chúng ta không?”.

Y nói thế, Khương Trầm Ngư mới nhớ ra. Tiết Thái đã bảy ngày liền không đến thư phòng, mỗi ngày chỉ vội vàng đến buổi chầu sớm, sau đó biến mất tăm mất tích, mà hôm nay lại càng quá đáng, đến chầu sớm cũng không xuất hiện.

“Hắn đang bận gì à? Có liên quan gì với thư sinh không chịu an phận? “.

“Hồi bẩm nương nương, là như thế này”. Người áo vàng sẫm đáp: “Tiết tướng tuy thành danh từ sớm, bốn bể đều hay, nhưng trước đây trong nhà xảy ra biến cố lớn, sau lại bị biếm thành nô lệ. Đến nay được khôi phục quan tịch, nhưng tuổi hãy còn quá nhỏ đã làm thừa tướng dưới một người trên vạn người, dân gian nghị luận xôn xao, có hai thư sinh là Ngô Thuần và Trần Long công khai phản đối, dựng sân khấu trên phố phê phán chính sự, kích động bách tính, càng làm càng loạn, đến nay ngày ngày đều có hơn trăm người tụ tập đến nghe”.

Đầu mày của Khương Trầm Ngư hơi nhíu lại; “Lại có chuyện này à? Tại sao không thông báo cho ta sớm?”.

“À, cái này…”. Giọng người áo vàng sẫm nhỏ dần đi: “Là Tiết tướng nói hoàng hậu bộn bề công việc, không được đem chuyện vặt này đến quấy nhiễu nương nương, tướng gia sẽ tự mình xử lý ổn thỏa…”.

“Thế hắn có xử lý ổn thỏa không?”.

Lời vừa thốt ra, bảy người nhìn nhau, rồi lại cười kỳ quặc như trước.

Bọn họ phản ứng như vậy, chắc chắn là sự tình đã được giải quyết, nếu không thần tình sẽ không nhẹ nhõm sảng khoái như thế. Khương Trầm Ngư thấy vậy trong lòng đã hiểu, nhưng mặt lại sầm xuống: “Hắn nói thế nào thì làm thế ấy, rốt cuộc hắn là chủ tử của các ngươi, hay ta là chủ tử của các ngươi?”.

Thất tử vội vàng lũ lượt đứng dậy khỏi ghế quỳ xuống, đồng thanh nói: “Hoàng hậu xin thứ tội!”.

Khương Trầm Ngư cảnh cáo xong, thấy thế liền thôi: “Đứng dậy đi. Nói cho ai gia nghe, rốt cuộc là chuyện gì? Hoa Tử, ngươi nói đi”.

Đối tượng bị gọi tên vốn luôn ngồi trên ghế, ngủ gật gà gật gù, bị gọi đột ngột, cả người giật bắn, cực kỳ hoang mang đứng dậy: “A? Cái gì?”.

Khương Trầm Ngư không nhịn được, bật cười một tiếng.

Thấy nàng cười, bọn Thất tử cũng trút được tảng đá đè trong lòng, cùng cười ầm lên.

Di Phi thấy mọi người cười, càng không hiểu, nhìn mọi người với vẻ cực kỳ nhếch nhác lẫn vô tội, thử thăm dò hỏi một câu: “Đến giờ ăn cơm rồi à?”.

Cả sảnh đường cười vang.

Khương Trầm Ngư mỉm cười nói: “Được rồi, ngươi ngồi xuống đã. Tử Tử (người áo tím), ngươi giỏi ăn nói nhất, ngươi kể đi”.

“Vâng”. Người áo tím khom lưng hành lễ, cũng không rề rà: “Sau khi Tiết tướng hay chuyện, liền cải trang trà trộn vào giữa đám người nghe bọn Ngô Thuần, Trần Long đó nói một buổi. Ngày hôm sau, khi Ngô Thuần, Trần Long vừa mới dựng sân khấu định nói chuyện tiếp, thì mười hai thiết kỵ đột ngột xuất hiện, tất cả đều mặc áo trắng, hơn nữa, trên dây cương ngựa đều thêu đồ đằng Bạch Trạch. Bách tính xung quanh nhìn thấy cảnh tượng này, vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, lũ lượt tản ra quỳ vái. Mười hai thiết kỵ đến trước sân khấu, xếp hàng như cánh quạt xòe ra, đi sau họ, chính là Tiết tướng đang cưỡi trên con Hãn Huyết bào mã”.

“Lớn tiếng phủ đầu, chiêu ra oai này quả không tồi”. Khương Trầm Ngư cười, tên tiểu tử Tiết Thái lại dám đem đồ đằng của công tử đi giễu khắp nơi, thật là ngày càng vô sỉ! Có điều, Bạch Trạch có địa vị rất cao trong lòng dân chúng Bích quốc, dùng nó để ra mắt, hiệu quả đúng thực rất tốt. Nàng hỏi tiếp: “Sau đó thì sao?”.

“Tiết tướng quét mắt nhìn sân khấu của bọn Ngô Thuần Trần Long một lượt, cười lạnh lùng, rút một quyển trục từ trong lòng ra, thúc ngựa đi đến trước một tửu lâu bên đường, vỗ cổ ngựa một cái tung thân bay lên, mở quyển trục kia ra, treo lên trên tấm biển hiệu, rồi nhẹ nhàng hạ xuống, đứng vững trên mặt đất. Động tác như nước chảy mây trôi, tư thế linh động, chân tay nhanh nhạy, khiến người ta phải tấm tắc khen hay…”.

Người áo tím còn định tán thưởng tiếp, Khương Trầm Ngư dở khóc dở cười nói: “Đủ rồi đủ rồi, ai gia khen ngươi giỏi ăn nói, ngươi lại thêm một tràng mỹ từ bóng bẩy, đâu phải bảo ngươi thuyết thư… Mau vào vấn đề chính đi!”.

“Vâng vâng vâng. Vi thần lỡ lời. Vi thần xin sửa”. Người áo tím cười cười khổ não: “Tất cả mọi người có mặt ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy trên quyển trục đó viết bốn chữ lớn ‘Đỉnh phanh thuyết thang’”.

“Gì?”. Khương Trầm Ngư kinh ngạc, sau đó lại thở dài: “Lẽ nào hắn muốn làm vậy thật?”.

“Tiết tướng treo xong quyển trục đó, quay người lại, lạnh lùng quét mắt nhìn một lượt, cao giọng nói: “Xưa Doãn tướng dùng cái vạc cái thớt nấu ăn cho vua Thang, lấy việc nấu ăn, ngũ vị để phân tích cục diện thiên hạ và đạo làm chính trị. Thang vương nhờ thế mà biết được ông có tài kinh thiên vĩ địa, xóa bỏ thân phận nô lệ, cất nhắc làm hữu tướng, từ đó khai sáng nên thịnh thế phồn hoa của triều Thương. Tiết Thái bất tài, mượn điển cố của cổ nhân, để làm chuyện ngày nay: Tại đây dựng lôi đài, trong bảy ngày, cho dù là ai, chỉ cần người đó cảm thấy có thực lực hơn ta, có thể làm thừa tướng của Bích quốc, đến đây khiêu chiến với ta, đánh bại ta, ta nguyện dâng tướng vị cho người đó, quyết không nuốt lời!”.

Khương Trầm Ngư nghe những lời này, trong lòng không biết là buồn cười hay là chấn động. Tiết Thái năm sáu tuổi đã dám nói với Yên vương “Yên là ngọc trong các nước, còn ta là ngọc trong loài người, hai thứ hợp nhau, có gì không thỏa đáng”. Tiết Thái năm bảy tuổi đã dám quát sủng phi của hoàng đế “Chim sẻ nhỏ nhoi, sao dám cản phượng giá”; Tiết Thái của hôm nay lại công khai tiếp nhận thư sinh thách đấu và dựng lôi đài trên phố, tự ví mình với Y Doãn… cho dù trải qua bao nhiêu trắc trở, Băng Ly vẫn là Băng Ly, ngạo cốt vẫn còn, không hề thay đổi một chút nào…

Người áo tím nói đến đây, mặt lộ vẻ khâm phục, cảm khái nói: “Hành động lần này của Tiết tướng mau chóng lan truyền ra ngoài, văn nhân các vùng lũ lượt đến đế đô, có người to gan thật sự lên thách đấu. Tiết tướng tuổi còn nhỏ nhưng kiến thức sâu rộng, trí nhớ tuyệt đỉnh, giỏi hùng biện, khẩu chiến nho sinh, đối diện với lời cật vấn của nhiều người vẫn ung dung ứng đối, thong thả đáp lời, khiến cho mọi người ai nếu đều thất sắc, đặc biệt là hai người Ngô Thuần Trần Long, đến phút cuối, phải hổ thẹn nói: “Cho dù ngươi tài hoa cái thế, kinh lược ngút trời thì sao? Chớ quên, cha ngươi và gia gia ngươi đều là nghịch thần! Là phản tặc! Là loạn thần tặc tử phạm thượng làm loạn! Là tội nhân thiên cổ mưu đồ lật đỠgiang sơn Bích quốc! Ngươi thân là con cháu của họ, lại có thể đảm nhiệm chức thừa tướng của Bích quốc, há chẳng phải là cổ vũ người trong thiên hạ đều có thể thả sức tạo phản sao? Dẫu cho tạo phản không thành, con cháu của mình cũng vẫn có thể làm quan. Để mặc cho ngươi làm tướng, thì luật pháp thiên thu để vào đâu? Thể diện của hoàng tộc để vào đâu? Giang sơn xã tắc để vào đâu?”.

Tràng chất vấn này đến Khương Trầm Ngư nghe xong mặt cũng biến sắc. Chiêu này quả thực quá độc, phơi bày ra chuyện cũ, lại dùng hai chữ “tạo phản” để chèn ép. Phải biết rằng đế vương từ thiên cổ đều kỵ nhất là tạo phản, không thể khoan dung nhất cũng là tạo phản, vì thế, đối với hậu quả của việc mưu nghịch làm loạn, cũng là cánh cáo kẻ khác: Kẻ làm phản, tru di cửu tộc, tất phải chết! Thế mới có thể cảnh cáo thiên hạ, phải ngoan ngoãn nghe lời, không được ngông cuồng dấy lòng mưu phản.

Có điều… tuy nàng kinh ngạc, nhưng không cảm thấy lo lắng. Bởi vì, nếu là Tiết Thái, chắc chắn có thể giải quyết vấn đề khó này… Trong lòng nàng đầy tin tưởng như thế.

Quả nhiên, câu tiếp theo của người áo tím đã chứng thực điểm này: “Tiết tướng nghe xong, mặt không đổi sắc, lạnh lùng cười nói: ‘Việc sai lầm cha ta và gia gia ta làm, có liên can gì đến ta?’. Trần Long nói: ‘Lẽ nào ngươi không biết cha nợ con trả sao?’. Tiết tướng nói: ‘Nếu ngươi đã nói như thế, vậy thì tổ tiên của các ngươi cũng tạo phản, các ngươi sao có mặt mũi mà sống trên đời này?’“.

Khương Trầm Ngư cả kinh: “Cái gì? Bọn họ cũng là con cái của phản tặc sao?”.

“Hồi bẩm nương nương, lời này của Tiết tướng vừa nói ra, hết thảy người nghe đều ngạc nhiên, phản ứng đều giống như nương nương. Mà tên Trần Long đó lập tức nhảy dựng lên, giận dữ đùng đùng nói: ‘Ngươi nói bậy! Tổ tiên ta ba đời đều là người đọc sách thanh bạch, làm gì có tạo phản? Đừng có ngậm máu phun người!’. Tiết tướng cười lạnh nói: ‘Tổ tiên ba đời không có? Thế thì mười đời? Hai mươi đời thì sao? Đừng quên Trần Thắng Ngô Quảng năm xưa, Đại Tần chính là diệt vong trong tay bọn họ’”.

Khương Trầm Ngư nhắm mắt – Nàng biết ngay mà… đến Trần Thắng Ngô Quảng cũng lôi ra được…

“Trần Long nghe đoạn càng nổi giận: ‘Cái, cái gì? Trần Thắng Ngô Quảng với, với với bọn ta có liên quan gì?’. Tiết tướng đáp: ‘Các ngươi cùng họ, truy ngược lên nghìn đời, tất là cùng gốc rễ mà ra’. Trần Long nói: ‘Cho dù, dù là tổ tiên của bọn ta, họ họ đều là thay trời hành đạo! Tần Nhị Thế thi hành bạo chính, hình phạt hà khắc, khiến muôn dân không được yên ổn…’. Tiết tướng ngắt lời hắn: ‘Ồ? Lúc này lại không đếm xỉa gì đến luật pháp thiên thu, thể diện hoàng tộc với giang sơn xã tắc nữa sao?’. Trần Long nói: ‘Ngươi, ngươi, ngươi…’”.

Trần thuật đến đây, Khương Trầm Ngư thở dài khe khẽ: “Tử Tử, ngươi cứ nói một mạch là được, không cần bắt chước cả điệu bộ nói lắp của họ đâu”.

Cả Bách Ngôn đường lại vang lên một trận cười.

Có lẽ bình thường họ đã quen với việc chế nhạo nhau, cho nên người áo tím tuy lúng túng, nhưng không thấy xấu hổ, vẫn cười vui vẻ như trước, nói: “Vâng. Vi thần xin sửa. Tóm lại bọn Trần Long nói không lại Tiết tướng, tức muốn chết, cuối cùng Tiết tướng nhìn đám đông một lượt, chậm rãi nói: ‘Trải qua nghìn năm, triều đại nào chẳng có phản thần, chẳng sinh nghịch tử, họ làm sai thì họ phải chịu phạt, nhưng vì thế mà tước đoạt công lao của con cháu họ, thì thực quá nực cười! Không sai, cha ta ông ta làm chuyện sai trái, nhưng rốt cuộc vì sao mà họ sai, trong lòng mọi người đều rõ. Trong triều đình, có thiên tử sao thần tử vậy, nếu phải nói Tiết gia nhà ta có tội, Tiết tộc nhà ta nợ Bích quốc, thế thì, để ta làm tướng quốc, há chẳng phải chính là cách chuộc tội tốt nhất sao? Nếu các ngươi cho rằng Tiết Thái ta năng lực không đủ, không thể làm tướng quốc, thì hãy dùng sự thực để chứng minh điểm này, chớ viện lý do nông cạn như xuất thân, tuổi tác gì đó, ta tuyệt đối không phục! Bảy ngày đã hết, các người đã thua. Nhưng ta biết các ngươi vẫn không phục, không sao cả, ta lại cho các ngươi thêm một cơ hội, ngày này hàng năm, ta đều đến đây dựng lôi đài, người trong thiên hạ đều có thể đến thử. Nhưng, chỉ là bảy ngày. Bất cứ thời gian bất cứ địa điểm khác nếu ta nghe thấy có người bàn láo chuyện triều chính, bôi nhọ danh dự của ta, chém!’. Tiếng chém cuối cùng chắc nịch đanh thép, lầu trên lầu dưới, không có ai dám ho he nữa, đều lặng ngắt như tờ”.

Khương Trầm Ngư tưởng tượng khung cảnh khi đó, không kìm được nói: “Giá như ta cũng có mặt thì hay biết mấy, thật muốn xem phong thái áp đảo quần hùng của Tiết Thái khi ấy”.

Người áo tím thở dài nói: “Trong Thất tử chỉ có vi thần hôm qua đích thân đi, nhìn thấy cảnh tượng quan trọng nhất đó, thật sự là cảm thấy… triều ta có thể có Tiết tướng, đúng là ông trời ban phúc”.

Khương Trầm Ngư nhớ ra một vấn đề: “Đợi đã! Ngươi nói hôm qua đích thân ngươi đi xem, cũng tức là thời hạn bảy ngày đến ngày hôm qua đã kết thúc. Vậy tại sao hôm nay Tiết Thái không đến?”.

Người áo xanh lục ở bên cạnh cười “phì” một tiếng, những người khác lại nở nụ cười kỳ quặc.

Nghe đến đây, Khương Trầm Ngư đã hiểu ra, bọn họ cười, không phải vì Tiết Thái khẩu chiến thắng bọn nho sinh, mà là đã phát sinh chuyện khác, hơn nữa, hẳn là chuyện này khiến Tiết Thái gặp xui xẻo. Nghĩ đến đây, không khỏi càng lúc càng tò mò: “Mau nói! Hắn làm sao?”.

Người áo tím nói: “Hồi bẩm nương nương, là như thế này, khi dựng sân khấu Tiết tướng quy định là từ giờ Ngọ đến giờ Tuất. Ngày hôm qua đến giờ Tuất, vốn dĩ tất cả đã kết thúc, bọn Trần Long cũng á khẩu không biết nói gì, thì một tên ngọc diện thư sinh đột nhiên ôm một cây đàn tiến vào tửu lâu, ngang nhiên đòi thi đàn với Tiết tướng”.

“Cái gì?”. Khương Trầm Ngư ngẩn ra một lúc, nhớ ra một vấn đề: Tiết Thái có biết chơi đàn không?

Tuy Tiết Thái là thần đồng, văn võ song toàn, nhưng cũng không phải cái gì cũng tinh thông, ví như chơi đàn, nàng chưa bao giờ nhìn thấy hắn chơi.

“Tiết tướng ngài… không biết chơi đàn”. Người áo tím nói ra đáp án.

Quả nhiên là thế… Khương Trầm Ngư đã lờ mờ đoán ra vì sao mọi người lại cười như thế.

“Vì vậy, thư sinh đó nói thi gảy đàn với ngài, không chỉ Tiết tướng ngẩn ra, mà những người xung quanh nghe thấy đều sững người. Tiết tướng chau mày nói; ‘Ngươi nói cái gì?’. Thư sinh đáp: ‘Ta muốn thi đánh đàn với ngài. Thừa tướng không phải nói, trong bảy ngày này bất luận là ai cũng có thể đến khiêu chiến ngài hay sao? Ta chính là đến khiêu chiến cầm nghệ của thừa tướng’”.

Di Phi sau khi bị gọi dậy không còn gật gù nữa, vẫn đứng bên cạnh, nghe đến đây, mắt đảo một vòng, “ồ” lên một tiếng, cười trộm nói: “Hay, hay, cái này hay! Đường đường là thừa tướng Bích quốc mà đến đàn cũng không biết gảy, đúng là quá mất phong nhã…”.

Khương Trầm Ngư lườm gã một cái: “Thứ lý lẽ ngụy biện này mà ngươi cũng nói ra được à? Ai gia muốn có một thừa tướng có thể xử lý chính sự chứ không cần một nhạc sư”.

Người áo tím nói: “Trên thực tế, khi ấy mọi người đều nghĩ như thế, đều cảm thấy thư sinh đó thật kỳ quặc, lại nghĩ ra được yêu cầu vớ vẩn như thế, chắc chắn Tiết tướng không biết chơi đàn, nhưng Tiết tướng nhìn thư sinh đó một cái, cười lạnh nói: ‘Được’”.

“Hắn đồng ý à?”. Điều này thực sự khiến Khương Trầm Ngư bất ngờ.

“Vâng. Tiết tướng nhận lời, không chỉ như thế, ngài còn nói: ‘Ta biết trong lòng ngươi đang nghĩ gì, nếu ta không nhận lời ngươi, ngươi chắc chắn sẽ rêu rao với bên ngoài là lôi đài mà ta dựng có lỗ hổng, quy định thi đấu có lỗ hổng, cũng chỉ là hình thức, nếu có thi cũng không chính xác, từ đó mà tiến một bước xóa sạch toàn bộ thành tích huy hoàng trong bảy ngày qua của ta, đúng không?’. Thư sinh đó mỉm cười, không thừa nhận cũng chẳng phủ nhận. Tiết tướng tiếp tục nói: ‘Cho nên, ta tuyệt đối không để ngươi được thỏa nguyện. Ngươi muốn thi đàn à? Đến đây! Thi thì thi!’”.

Khương Trầm Ngư tuy biết sau cùng chắc chắn Tiết Thái sẽ thắng nhưng nghe đến đây, trong lòng cũng không khỏi lo lắng.

“Không phải hắn không biết chơi đàn sao?”.

“Hồi bẩm nương nương, Tiết tướng đích thực là không biết chơi đàn, đối phương chắc chắn cũng đã tìm hiểu về điểm này, cho nên mới dám đến khiêu khích không hề e sợ như thế. Thế là, thư sinh đó ngồi xuống, đặt cây cổ cầm xuống nói: ‘Trước tiên phải nói cho rõ, kỹ thuật đánh đàn, cao thấp khác biệt nếu như rất lớn, tự nhiên sẽ dễ phán đoán, nhưng nếu trình độ ngang ngang nhau, thì sẽ khó mà đoán định. Ta và ngươi phải phân giới hạn rõ ràng như thế nào?’. Tiết tướng đáp: ‘Ngươi nói đi’. Thư sinh nói: ‘Được. Ý của ta là, có mặt ở đây tổng cộng bảy mươi chín người, chúng ta đàn ra sao, hãy để bảy mươi chín người này chấm điểm, cuối cùng ai được ủng hộ nhiều nhất, người đó thắng. Thế nào?’. Tiết tướng nói: ‘Được’”.

Khương Trầm Ngư thở dài: “Thật là làm khó hắn rồi. Thế mà cũng nhận lời. Ai chẳng biết những người đi xem đó, kỳ thực đều là những người muốn nhìn thấy hắn thua cuộc, cho dù hắn có thể đàn hay như thư sinh kia, e là mọi người cũng mang tâm lý xấu xa muốn coi trò hay nên vẫn bỏ phiếu cho hắn thua thôi”.

“Vâng, vi thần cũng nghĩ như vậy, vì thế vi thần đứng bên nhìn mà lo lắng hết đỗi, thần tiến lên phía trước khuyên can, trái lại Tiết tướng căn bản không để ý đến thần, bước tới ngồi đối diện với thư sinh, nói: ‘Ở đây không có đàn, ta dùng đàn của ngươi có được không?’. Thư sinh nói: ‘Được’. Tiết tướng nói: ‘Thế thì ngươi là khách, ngươi đàn trước’. Thư sinh đồng ý, liền bắt đầu gảy đàn…”.

“Chắc hắn đàn rất giỏi”. Khương Trầm Ngư đoán.

Người áo tím lại lắc đầu.

“Sao? Lẽ nào hắn đàn cũng dở?”.

Người áo tím vẫn lắc đầu.

Khương Trầm Ngư đang cảm thấy kỳ quái, thì người áo tím đã nói rõ chân tướng: “Kỳ thực thì… căn bản hắn không đàn nổi. Hắn vừa mới gảy hai âm, dây đàn đã đứt. Cho nên, hắn đành phải thay dây đàn, nhưng gảy thêm được mấy âm, dây đàn lại đứt. Hắn lại thay dây, dây đàn lại đứt nữa… Tóm lại hắn cứ đàn được ba bốn tiếng, lại bị đứt một dây, cuối cùng, hắn đập bàn đứng dậy quát: ‘Tiết Thái, ngươi giở trò gì với đàn của ta phải không?’. Tiết tướng nói: ‘Đây là đàn của ngươi, dây cũng là ngươi tự tay mang theo’. Thư sinh nói: ‘Nhưng lúc ta gảy đàn ngươi lén lút dùng nội lực làm đứt dây đàn, đúng không?’. Tiết tướng mỉm cười: ‘Tỉ thí thôi mà. Nếu ngươi không phục, khi ta gảy đàn ngươi cũng thoải mái làm đứt dây đàn của ta’. Thư sinh giận dữ nói: ‘Ta không biết võ công!’. Tiết tướng nói: ‘Rất tốt, ta cũng không biết chơi đàn’. Thư sinh nói: ‘Thế thì ngươi thua rồi!’. Tiết tướng nói: ‘Dựa vào cái gì? Cầm nghệ đến đàn cũng không đàn nổi của ngươi cũng có thể coi là thắng sao?’. Thư sinh nói: ‘Đó là vì ngươi đứng bên cạnh phá hoại!’. Tiết tướng nói: ‘Ta có thể khiến ngươi không đàn nổi, thì ta thắng’. Thư sinh kêu lên: ‘Thế mà gọi là thắng à?’. Tiết tướng bỗng nói thật chậm, từng tiếng từng tiếng rành rọt: ‘Đây chính là chiến thắng của sức mạnh’. Thư sinh sững ra, không nói gì nữa”.

Khương Trầm Ngư nhắc lại: “Chiến thắng của sức mạnh?”.

“Vâng. Tiết tướng nói: ‘Trên thế giới này có rất nhiều kỹ nghệ, duy chỉ có sức mạnh là có thể trấn áp tất cả. Cầm nghệ của ngươi có cao hơn nữa, nhưng ta có thể khiến ngươi không đàn nổi, đây chính là biểu hiện của việc ta vượt trội hơn ngươi’. Nói đến đây, ngài xoay người, nhìn mọi người, cất cao giọng nói: ‘Các ngươi nghe rõ cho ta, những người khác muốn lợi dụng kiếm chác, muốn xuyên tạc lời ta, thì cũng phóng ngựa đến hết cả đây, nhưng trước khi đến, các ngươi phải chuẩn bị tâm lý cho tốt – Có lẽ các ngươi có thể thắng ta về một kỹ năng nào đó, nhưng, nếu võ công không thể thắng ta, đều là vô ích. Nếu võ công hơn ra, chớ quên sau lưng ta còn có mười hai thiết kỵ, ba vạn binh mã, quyền hành cả nước, các ngươi cứ khiêu chiến thử xem!’. Thư sinh thét lên: ‘Thế thi đấu còn gì là công bằng?’. Tiết tướng nhìn hắn khinh miệt, lạnh lùng cười: ‘Quyền thế cũng là một loại thực lực. Nếu ngươi không có thực lực vượt hơn ta, dựa vào cái gì mà đòi thay thế ta?’”.

Khương Trầm Ngư ngẫm nghĩ câu “Quyền thế cũng là một loại thực lực”, không khỏi có phần ngây ngốc.

Tiết Thái… Tiết Thái… xuất sắc như thế, kiêu ngạo như thế, lại bá đạo như thế!

Có lúc không khỏi hoài nghi hắn có thực sự là con người không? Một đứa trẻ tám tuổi, sao có thể có trí tuệ như thế? Hơn nữa, ngoài trí tuệ ra, hắn còn xuất thân cao quý, vì thế đã bồi dưỡng nên tính cách cao ngạo ngút trời, cậy tài khinh người, ngoài tính cách ra, hắn lại trải qua chuyển biến lớn kinh thiên động địa của đời người – từ trời cao rớt bùn lầy, lại từ bùn lầy trở lại trời cao như thế, khiến hắn ngoài ngạo mạn, còn rèn luyện được tính thận trọng và chu toàn hơn người thường. Hành vi nhìn có vẻ như huênh hoang to gan, được ăn cả ngã về không của hắn vừa hay là biểu hiện của việc hắn chuẩn bị đầy đủ, không hề sơ sót.

Người bình thường, cho dù có được khả năng bẩm sinh như hắn cũng không thể có tính cách như hắn; cho dù có tính cách giống như hắn, cũng không thể có cảnh ngộ giống hắn… Hàng loạt các loại yếu tố này đã tạo thành thái độ ngang ngược coi thường hết thảy của hắn lúc này, mà thái độ ngang ngược ấy chính là điều không thể thiếu của một người làm chính trị thành công.

Có lẽ bản thân thật sự may mắn, may mà hắn đứng về phía nàng.

Nếu có một đối thủ như thế này, thực sự quá đáng sợ…

Mắt Khương Trầm Ngư hơi trầm xuống, trong lòng đã quyết: Cả đời này, tuyệt đối không thể cho Tiết Thái bất cứ cơ hội nào trở thành kẻ địch của nàng.

Người áo tím nói: “Tiết tướng nói xong những lời này, hết thảy mọi người có mặt tại chỗ đều im lặng, còn thư sinh đó đứng yên mà toàn thân run rẩy, trên mặt lúc trắng lúc đỏ, chính lúc mọi người tưởng hắn chắc chắn sắp tức đến chết, hắn đột nhiên lấy một vật từ trong chiếc hộp bên cạnh ra, ném vào người Tiết tướng. Đám thị vệ cả kinh, tưởng là ám khí, đang định xông lên phía trước hộ vệ, Tiết tướng giơ tay lên, tự mình dùng tay áo cuốn vật đó lại…”.

Bảy người còn lại nghe đến đây, lại bắt đầu cười khùng khục. Thế nên Khương Trầm Ngư biết cuối cùng đã kể đến đoạn mấu chốt, bèn hỏi: “Là thứ gì?”.

“Là tú cầu”.

Khương Trầm Ngư gần như hoài nghi câu mình nghe thấy, không nhịn được nhắc lại lần nữa: “Là thứ gì?”.

“Tú cầu”. Người áo tím nghiêm trang trả lời: “Chính là loại tú cầu thêu bằng chỉ màu, dùng để các thiếu nữ chưa chồng kết duyên…”.

“Ta biết cái gì là tú cầu”. Trầm Ngư ngắt lời y: “Ta chỉ muốn hỏi tại sao thư sinh đó lại ném tú cầu cho Tiết Thái?”.

“Khi đó, bọn thần nhìn thấy quả tú cầu đó, tất cả đều ngẩn người ra, nghi ngờ mắt mình bị làm sao. Thư sinh đó cười khúc khích, giọng nói đột ngột biến đổi, nếu nói ban đầu hắn nói giọng eo éo, thì khoảnh khắc đó lại biến thành giọng nữ nhi, hơn nữa còn giơ một tay chỉ vào Tiết tướng nói: ‘Được, quả nhiên không hổ là tiểu Băng Ly nổi danh thiên hạ! Ta phục rồi. Cho nên, ta quyết định lấy ngươi! Quả tú cầu này chính là tín vật định tình của ta, ta biết tuổi ngươi còn nhỏ, có điều không sao, ta có thể chờ ngươi. Bản cô nương chính là con gái của Hồ Cửu Tiên, tiểu danh là Sành Nương. Ngươi chớ có quên, ngày sau phải đến nhà xin cưới ta nhé’!’. Nói đoạn, ôm đàn thướt tha rời đi…”.

“Hồ Cửu Tiên?”. Cái tên này rất quen, dường như đã nghe thấy ở đâu rồi.

“Ông ta là người Nghi quốc, được mệnh danh là đệ nhất thương gia của bốn nước, giàu nhất thiên hạ, nơi nào cũng có sản nghiệp của ông ta. Mà Hồng viên nổi tiếng nhất đế đô chính là của ông ta”.

Khương Trầm Ngư “a” một tiếng, chẳng trách nàng cảm thấy quen tai, hóa ra là chủ nhân của Hồng viên.

“Ha ha ha ha ha, hay cho một cô nương to gan!”. Di Phi nghe xong đập bàn kêu tuyệt: “Hay cho một mối nhân duyên tuyệt diệu! Chúc mừng nương nương, chúc mừng nương nương, hữu tướng của nương nương sắp thành gia lập nghiệp rồi, ha ha ha ha ha…”.

Người áo tím cố gắng nhịn cười, tiếp tục nói: “Hồ tiểu thư đó bỗng nhiên bỏ đi, làm mọi người bất ngờ, vẻ mặt của Tiết tướng khi ấy thật là… cả đời này vi thần cũng không thể quên. Chuyện này lập tức đồn ra ngoài, vì thế, hôm nay Tiết tướng vốn dĩ muốn lên triều, nhưng kiệu của ngài vừa mới ra khỏi hầu phủ, liền phát hiện bên ngoài có một đám người đông đúc vây quanh, đều là những cô nương tuổi thanh xuân đứng chờ bên ngoài cả đêm, ngài vừa mới vén rèm kiệu lên thò đầu ra ngoài nhìn, liền có vô số tú cầu bay về phía ngài… Những cô nương đó vừa ném vừa hét: ‘Thừa tướng đại nhân, chúng ta cũng muốn lấy ngài…’. Họ đứng đông nghịt cả đường, chiếc kiệu căn bản không thể đi nổi, đành quay đầu về phủ, cho nên, hôm nay Tiết tướng không thể lên triều…”.

Lời của người áo tím còn chưa dứt, mọi người trong sảnh đã cười nghiêng cười ngả.

Chỉ có một người không cười, đó chính là Khương Trầm Ngư.

Mọi người cười xong một lúc, mới phát hiện hoàng hậu không cười, liền vội vàng thu lại nụ cười, lo lắng bất an nhìn nàng.

Khương Trầm Ngư cụp mắt, trầm mặc một lát, sau đó đẩy đống tấu sớ ra, nói: “Hôm nay đến đây thôi, các ngươi về cả đi. Ai gia cũng mệt rồi, về cung nghỉ ngơi đã”. Nói rồi, đứng dậy rời ghế.

Nàng bình tĩnh đi ra khỏi Bách Ngôn đường, rất bình tĩnh đi ra khỏi thư phòng, rất bình tĩnh đi vào trong n Bái cung, nói với cung nữ: “Ai gia muốn ở một mình một lúc, các ngươi lui cả ra đi”.

Bọn cung nữ vâng dạ rồi đi ra, đóng cửa phòng lại.

Khương Trầm Ngư đi đến bên giường, ôm chăn trùm kín đầu, bấy giờ mới cười to, cười đến nỗi chiếc giường rung lên bần bật, cười đến nỗi trào cả nước mắt: “Ha ha ha ha ha ha… Ha ha ha… Ha ha ha ha ha…”.

Tiết Thái… lấy vợ…

Ha ha ha ha ha…

Tiết Thái à Tiết Thái, ngươi cũng có ngày này!

Ha ha ha ha ha…

Tiếng cười của nàng loáng thoáng truyền ra ngoài điện, Ác Du nghe thấy tò mò: “Hoài Cẩn tỉ tỉ, nương nương sao thế? Có chuyện gì vui à?”.

Hoài Cẩn mỉm cười nhàn nhạt: “Chúng ta làm nô tài, chỉ cần vui thay nương nương là được rồi. Tiểu thư… đã lâu lắm rồi mới được vui vẻ như thế…”.

Đúng thế, kể từ sau khi Kỳ Úc hầu chết, ngoài lần thái tử Tân Dã chào đời, tiểu thư, chưa từng vui vẻ như thế…

Có thể cười như thế này, là chuyện tốt biết bao…

Ngày hôm sau trong buổi chầu sớm, Tiết Thái vẫn không xuất hiện. Nhưng khi Khương Trầm Ngư chuẩn bị đi vào thư phòng nghị sự cùng với Thất tử, hắn lại xuất hiện, hơn nữa còn không mặc quan phục, chỉ mặc một chiếc áo khoác màu đen, quấn kín từ đầu đến chân.

Khương Trầm Ngư thấy hắn nai nịt như thế, không kìm được mỉm cười: “Thừa tướng từ đâu đến, định đi đâu đấy?”.

Tiết Thái sầm khuôn mặt nhỏ trắng trẻo xuống, không trả lời, tự đi vào Bách Ngôn đường, cởi áo khoác rồi ngồi lên ghế tựa, cất tiếng hỏi: “Hôm qua và hôm nay có chuyện gì lớn xảy ra không?”.

Khương Trầm Ngư khoan thai đi vào trong, từ tốn nói: “Có đấy, chuyện lớn nhất chính là thừa tướng của Bích quốc sắp thành thân. Chuyện này có lớn không?”.

Khóe mắt Tiết Thái quả nhiên bắt đầu co giật.

Bọn Thất tử cũng mím môi nén cười, người áo vàng sẫm bật cười thành tiếng đầu tiên nói: “Nghe nói từ ngày hôm qua, tất cả các cô nương chưa lấy chồng ở đế đô đều xếp hàng dài trước cửa hầu phủ, chuẩn bị chặn thừa tướng đại nhân của chúng ta, một bầy oanh oanh yến yến, bao vây hầu phủ đến một giọt nước cũng không lọt. Tình hình này, thừa tướng vẫn có thể thoát thân đi khỏi, thật là lợi hại, thật là lợi hại”.

Tiết Thái “hừ” một tiếng.

Người áo xanh lục bên cạnh cười nói: “Ta biết rồi, hôm nay thừa tướng dùng kế kim thiền thoát xác, sai nô tì ngồi vào kiệu của mình đi ra cổng trước, còn mình cải trang âm thầm đi cổng sau, nhưng vì muốn tránh tai mắt của người ta, cho nên đến muộn một canh giờ, không kịp lên buổi chầu sáng”.

Khương Trầm Ngư cười híp mắt nói: “Sao thế, thừa tướng đại nhân, có cần ai gia ban hôn cho ngươi không?”.

Tiết Thái rít qua kẽ răng: “Không phiền nương nương nhọc lòng”.

“A, thừa tướng nói gì thế? Thừa tướng là rường cột của nước nhà, trọng thần của triều đình, hôn sự của thừa tướng là đại sự quốc gia. Cái cô Hồ Sảnh Nương đó cũng không phải nhân vật tầm thường, thừa tướng lấy cô ta, có thể gọi là được cả danh lẫn lợi, song kiếm hợp bích, đã vui lại thêm vui…”. Khương Trầm Ngư thong thả nói: “Điều quan trọng nhất là, nếu như thế, những thiếu nữ trước cửa nhà thừa tướng kia, sẽ hết hy vọng. Nếu không, ngày ngày thừa tướng đau đầu vì việc ra ngoài, lần nào cũng đến trễ, ai gia không thể cho phép như vậy được”.

Mí mắt Tiết Thái giật giật, không biết là giận hay là buồn, nghiến răng nói: “Xin nương nương an tâm, tiểu thần đã nghĩ ra một cách giải quyết, không đầy nửa ngày, đám nữ nhân vô vị đó sẽ tản đi hết”.

Khương Trầm Ngư nghe xong lại càng cảm thấy hứng thú: “Ồ, không biết cách của thừa tướng là gì?”.

Tiết Thái còn chưa trả lời, một tiếng cười lớn từ bên ngoài truyền vào, tiếp theo, cửa mật thất mở ra, La Hoành dẫn theo Di Phi đi vào.

Di Phi nhìn thấy Tiết Thái mắt sáng rỡ lên, vừa cười lớn vừa đi đến bên cạnh hắn, vỗ vỗ lên vai Tiết Thái nói: “Hóa ra là như thế! Hóa ra là như thế! Không ngờ lớn thừa tướng Tiết Thái của chúng ta lại là một kẻ si tình. Ha ha ha ha!”.

Mọi người đều nhìn Di Phi bằng ánh mắt hiếu kỳ.

Di Phi che miệng cười, cuối cùng nhìn, sang Khương Trầm Ngư: “Nương nương, nương nương có biết Tiết tiểu thừa tướng nhà ta hôm nay đã làm chuyện kinh thiên động địa đến nhường nào không?”.

Khương Trầm Ngư cười cười nói: “Theo như ta biết, Tiết ái khanh ngày nào cũng làm những chuyện kinh thiên động địa”.

“Cũng đúng. Chỉ có điều, hôm nay là đặc biệt nhất mà thôi”. Di Phi lại vỗ vào vai Tiết Thái, thở dài nói: “Ngươi dù không thích những cô gái đó, cũng ít nhiều phải giữ chút thể diện cho họ chứ, sao có thể một đòn quét sạch như thế? Nếu ngày mai bọn họ treo cổ tự vẫn thì làm thế nào?”.

Người áo vàng sẫm nghe thấy hai mắt liền phát sáng, nói nhanh: “Tam hoàng tử muốn nói gì, mau nói nhanh nói nhanh, thừa tướng rốt cuộc đã làm gì?”.

“Thừa tướng… sai người treo một bức tranh bên ngoài cửa lớn của phủ Kỳ Úc hầu, và tuyên bố: Tiết Thái hắn là nhân vật kiệt xuất trăm năm khó gặp, đương nhiên phải lấy một mỹ nhân tuyệt thế có thể xứng với hắn. Vì thế, nếu vị cô nương nào không xinh đẹp bằng người trong bức tranh, thì hãy bỏ ý nghĩ lấy hắn đi…”.

Khương Trầm Ngư cảm thấy có gì là lạ: “Đợi đã! Ngươi nói hắn treo một bức tranh? Lẽ nào là…”.

Tiết Thái bấy giờ ngẩng đầu lên, biểu tình u ám trên gương mặt biến mất, khóe môi cong lên, mang theo nét cười có chút gian trá: “Nói ra vẫn phải đa tạ nương nương. Nếu không phải là nét vẽ tuyệt diệu của nương nương, vi thần vẫn còn phải khổ não tìm đâu được một bức tranh như thế?”.

“Ngươi! Lẽ nào ngươi treo bức tranh ai gia vẽ cho Hy Hòa?”. Lời vừa thốt ra, Thất tử cũng thất kinh, hóa ra Tiết Thái lại treo tranh của Hy Hòa?

Tiết Thái “ừ” một tiếng.

Khương Trầm Ngư lập tức đứng dậy: “Ngươi dám ăn trộm tranh của ai gia!”.

“Tiểu thần chỉ mượn dùng mấy ngày thôi, đợi sự việc qua đi sẽ tự giác đem trả”. Tiết Thái nói rất ngang nhiên đường hoàng: “Đúng như nương nương nói, tiểu thần là rường cột của nước nhà, trọng thần của triều đình, nếu ngày nào cũng bị người ta vây kín dẫn đến không thể lên buổi chầu sớm, tổn thất này to lớn quá. Cho nên, nghĩ cho giang sơn xã tắc Bích quốc, nương nương cũng không nên hẹp hòi, tiếc một bức tranh cỏn con, đúng không?”.

Đến lượt Khương Trầm Ngư nói không nên lời.

Cứ như thế, Tiết Thái dùng tranh vẽ Hy Hòa phu nhân, thành công ép những tú nữ muốn gả cho hắn phải thối lui. Nhưng hành động này cũng để lại một ảnh hưởng rất xấu, đó chính là…

“A, ngươi nghe nói chưa? Thừa tướng của chúng ta có ý trung nhân rồi đấy!”.

“Hắn mới mấy tuổi mà đã có ý trung nhân?”.

“Ngươi thì biết cái gì, phàm chuyện gì mà gắn với Băng Ly công tử thì không thể suy luận theo lẽ thường được. Tóm lại là thế này, hắn đã sớm có ý trung nhân rồi, mà người hắn yêu không phải ai khác, chính là tiền phu nhân của triều ta”.

“Ngươi nói là… Hy Hòa phu nhân?”,

“Ngoài nàng ta ra còn có ai nữa! Đệ nhất mỹ nhân của bốn nước năm xưa, chậc chậc, đáng tiếc là chết sớm quá”.

“Lá gan của hắn cũng to thật nhỉ? Đến phi tử của hoàng đế mà cũng thầm thương trộm nhớ. May mà Hy Hòa phu nhân đã chết, nếu không đã thành tin xấu rồi!”.

“Luôn làm chuyện không bình thường, một hành động cả thiên hạ kinh ngạc. Không hổ là Băng Ly công tử…”.

“Đúng thế đúng thế…”.

Chuyện này càng đồn càng rộng, phiên bản cuối cùng chính là…

Thừa tướng của Bích quốc Tiết Thái, từ thuở còn bé tí đã thầm yêu Hy Hòa phu nhân, thậm chí miếng mỹ ngọc Băng Ly tuyệt thế mà Yên vương tặng hắn cũng đem tặng lại cho Hy Hòa phu nhân. Nào ngờ Hy Hòa phu nhân hồng nhan bạc mệnh, chẳng đợi hắn làm nên sự nghiệp đã ngọc nát hương tan.

Cho nên, Tiết Thái rất đau lòng, tuyên bố với bên ngoài rằng nhất định phải lấy một nữ tử có tướng mạo giống Hy Hòa làm vợ. Yêu cầu này quá cao, vì vậy, chuyện chung thân đại sự đành phải gác lại.

Đến đây, Tiết Thái đã không còn bị ai quấy nhiễu nữa.

Ngày tháng cứ trôi qua thi thoảng vội vàng, thi thoảng vui đùa cười nói, thi thoảng nguy hiểm, thi thoảng bận rộn như thế. Không biết bắt đầu từ khi nào, Tiết Thái càng ngày càng bận, thường xuyên nghị sự xong là mất tăm mất tích, mà không chịu về nhà giống như trước đây, cho dù không có chuyện gì cũng ở trong cung. Có lúc Khương Trầm Ngư hỏi hắn, hắn cũng không trả lời, lâu ngày, Khương Trầm Ngư cũng không hỏi nữa.

Dịp khai xuân năm Đồ Bích thứ sáu, xảy ra một chuyện vui.

Nói là chuyện vui, kỳ thực cũng không hẳn, có người lại cho là xúi quẩy, có người cho là đương sự thấy vui là được. Mà sự kiện gây nên sự chú ý và bàn tán rộng rãi ở Bích quốc này chính là – đại tướng quân Phan Phương lấy vợ.

Mọi người đều biết, đại tướng quân vốn có một người vợ chưa cưới mà y yêu chân thành, nhưng lại bị Tiết Túc gọi đến phủ để thuyết thư rồi làm nhục, không chịu nhục, nàng đã tự vẫn. Sau này đại tướng quân tuy đích thân dẫn binh đánh bại Tiết Hoài khiến cả Tiết gia sụp đổ, coi như đã báo được thù, nhưng người yêu đã chết, không thể vãn hồi. Sau đó lại phụng chỉ đến Trình quốc chuẩn bị hỏi cưới công chúa, cũng không ra đâu vào đâu… Tóm lại, nói đến vị đại tướng quân Phan Phương này, trừ việc hắn kiêu dũng thiện chiến ra, điều khiến người ta có thể bàn luận say sưa nhất chính là sự si tình của hắn.

Mọi người đều cho rằng hắn sẽ không thể thành thân lần nữa, không ngờ, hắn bất ngờ cưới vợ mà không hề báo trước. Vì thế, chuyện này đồn ra ngoài, cả nước kinh ngạc.

Mà điều khiến người ta ngạc nhiên nhất chính là vị thê tử kia của hắn…

Về việc này, Khương Trầm Ngư được biết thông qua báo cáo của Thất tử. Khi đó, người áo tím nói như thế này: “Nương nương, Phan tướng quân xảy ra chuyện rồi”.

Làm cho Khương Trầm Ngư sợ đến mức cuống lên: “Xảy ra chuyện gì?”. Phan Phương có thể nói là thần tử mà nàng yên tâm nhất, luôn an phận thủ thường, chưa từng kéo bè kết đảng, cũng không thích thể hiện bản thân, sinh hoạt càng cực kỳ đơn giản, ngày ngày không làm việc thì đóng cửa luyện tập võ công, uống rượu, rất hiếm khi ra ngoài. Một người như thế có thể xảy ra chuyện gì được? Nếu là người khác còn có khả năng mắc bệnh, còn Phan Phương, nếu đến hắn cũng đổ bệnh, thì trên đời này có lẽ chẳng có người nào khỏe mạnh nữa?

Người áo tím thở dài, sáu người còn lại lần lượt biểu lộ vẻ buồn rầu.

Vì thế, Khương Trầm Ngư càng lo lắng hơn: “Hắn làm sao?”.

“Hắn bị người ta hãm hại”.

“Ai dám to gan thế? Dám hãm hại cả Phan ái khanh?”.

“Là như thế này, ngoại ô kinh thành có một ông lão câu cá, ông có một cô con gái tên là Phương Cô, xấu xí không thể tả nổi, lại còn bị điếc hai tai, vì thế, năm nay đã hai mươi sáu tuổi mà vẫn chưa gả đi được, ông lão rất buồn rầu, trăn trở mãi phải làm sao, cuối cùng nương nương đoán thế nào?”.

“Có liên quan đến Phan ái khanh?”.

“Tháng trước không phải có một trận tuyết lớn sao? Ông lão liền lừa Phương Cô đến trước cổng Phan phủ, vứt cô ta ở đó. Khi Phan tướng quân mở cửa, nhìn thấy một người nằm ngất lạnh cóng trong tuyết, bèn tốt bụng cứu cô ta về, cứ thế qua một đêm. Sang ngày hôm sau, tướng quân đưa Phương Cô đã tỉnh về nhà, ông lão lại nói họ trai đơn gái chiếc ở chung với nhau một đêm, sự thanh bạch của con gái ông đã bị hủy hoại, không gả chồng được, bắt tướng quân phải chịu trách nhiệm. Cô Phương Cô đó thoạt đầu không biết là chuyện gì, sau biết rồi thì khóc ầm lên chạy đi nhảy xuống hồ. Nước hồ đóng băng, cô ta nhảy xuống hố băng, Phan tướng quân vội vàng cứu cô ta lên, khi cứu người đương nhiên không tránh được ôm ôm ấp ấp, thế là ông lão bám chặt lấy tướng quân… Thế nên, Phan tướng quân đã cưới cô ta”.

Thất tử lũ lượt thở dài: “Quá thảm!”. “Đúng thế đúng thế, chỉ có Phan tướng quân mới vậy, chứ người khác thì mặc xác ngươi chết hay là người…”. “Ông lão kia chắc chắn đã tìm hiểu tướng quân là người thế nào, biết tướng quân không dùng thế ép người, cho nên mới vu vạ cho tướng quân”. “Cái này gọi là ở hiền gặp ác mà…”. “Thực ra cũng chẳng có gì, coi như lấy một người thiếp, vấn đề là cô gái đó thực sự quá xấu xí ấy!”. “A, đại nhân cũng thấy rồi à? Mấy ngày trước quá hiếu kỳ nên ta cũng liếc một cái, kết quả là…”. “Đại trượng phu sống ở trên đời, những chuyện thảm nhất Phan tướng quân đều gặp cả, thật là đáng thương, đáng thương…”.

Lời Thất tử nói thể hiện tâm lý nam nhân một cách rõ rệt nhưng Khương Trầm Ngư nghe được, trong lòng cũng không vui.

Ngày hôm sau, nàng triệu Phan Phương vào trong cung, nói với hắn: “Phan tướng quân, nếu có chuyện gì khanh ngại không tự mình ra mặt từ chối, ai gia có thể giúp khanh từ chối”.

Phan Phương nhìn nàng với vẻ hơi ngạc nhiên, lát sau đáp: “Hồi bẩm nương nương, vi thần không có chuyện gì khó xử cả”.

“Khanh không cần giấu ai gia, ai gia đã nghe nói rồi, vị phu nhân đó của khanh…”.

Phan Phương cúi đầu.

Khương Trầm Ngư thấy điệu bộ này của y, lòng càng thương hơn, bèn giận dữ nói: “Dưới càn khôn rộng lớn, trời cao vời vợi này, lại có tên điêu dân ép hôn, hơn nữa còn ép đại tướng của triều ta, chuyện này tuyệt đối không thể tha được, người đâu! Truyền ý chỉ của ai gia…”.

Nàng còn chưa nói dứt câu, Phan Phương đã quỳ sụp xuống.

Khương Trầm Ngư kinh ngạc nói: “Phan ái khanh, khanh làm gì vậy?”.

Phan Phương cung kính dập đầu, khi ngẩng đầu lên, hai mắt sáng rỡ mà kiên định: “Vi thần tạ ơn nương nương quan tâm đến vi thần, nhưng chuyện cưới vợ là vi thần tự nguyện, không phải ép gạt, cho nên xin nương nương nguôi giận”.

“Nhưng… họ rõ ràng nói là ông lão đó cố ý vứt con gái trước cửa nhà khanh…”.

Phan Phương cụp mắt, thấp giọng nói: “Cho dù chuyện trước đó như thế nào, sự thực là vi thần đúng là đã ôm cô nương đó”.

“Phan ái khanh!”. Khương Trầm Ngư cũng không biết vì sao mình để ý chuyện này như thế, có lẽ là vì nàng đã từng tận mắt chứng kiến bi kịch của Phan Phương và Tần nương, trong lòng luôn cảm thấy hổ thẹn với y, vì thế, bây giờ đột nhiên có người nhét một nữ nhân cho Phan Phương, giống như một tay hủy diệt mối tình duyên bi thương đến cực điểm và cũng đẹp đẽ đến cực điểm ấy.

Ở nơi sâu thẳm nội tâm của nàng, không sao có thể tiếp nhận nổi, vì thế nàng hít một hơi thật sâu, trầm giọng nói: “Tóm lại, hôn sự này ai gia không chấp nhận! Ai gia không thể trơ mắt nhìn khanh nhảy vào hố lửa!”.

Phan Phương ngẩng mặt lên, nhìn nàng chằm chằm, sau đó, bỗng nhiên bật cười.

“Khanh cười cái gì?”.

“Không có gì…”. Phan Phương khẽ thở dài, trong ánh mắt chất chứa vài phần hoài niệm: “Chỉ là cảm thấy, nương nương vẫn là nương nương của thuở ban đầu, vi thần… rất cảm động, cũng rất vui”.

Mặt Khương Trầm Ngư đỏ bừng biết hắn ám chỉ bản thân mình lúc đi sứ Trình quốc năm nào. Cơn xấu hổ qua đi, nàng lại càng thận trọng.

“Chuyện này khanh nghe ta, được chứ?”.

“Nương nương… nếu, vi thần thực lòng muốn cưới Phương Cô thì sao?”.

“Cái, cái gì?”. Khương Trầm Ngư cả kinh. Phan Phương đối với Tần nương như thế, nàng tận mắt chứng kiến, một nam nhân như thế sao có thể thay lòng đổi dạ? Được thôi, cứ cho là hắn có thể thay lòng đổi dạ, nhưng Phương Cô đó, theo như Thất tử miêu tả là một cô gái xấu xí vô cùng! Sao có thể?

Dường như đọc được suy nghĩ trong lòng nàng, Phan Phương cười cười, nói: “Phương Cô là một cô gái tốt. Vi thần biết có lẽ nương nương cũng nghe nói rồi, nàng ta… bị điếc. Tướng mạo cũng không được ưa nhìn. Nhưng ngoài hai điểm kia ra, nàng thật sự, thật sự là một cô gái rất tốt”.

“Phan tướng quân…”. Nhất thời, Khương Trầm Ngư không biết phải nói thế nào.

“Vi thần biết trong con mắt người ngoài, đều cảm thấy cô ấy không xứng với thần, nhưng, tự vi thần lại cảm thấy thành thân với vi thần mới là thiệt thòi cho Phương Cô… Tóm lại, vi thần thật lòng thành tâm muốn cưới cô ấy, xin nương nương tác thành”.

Khương Trầm Ngư nhìn Phan Phương đăm đăm, lúc lâu sau cũng không nói được gì, cuối cùng đành để cho Phan Phương ra về.

Mấy ngày sau, nàng mặc thường phục xuất cung, cùng với Tiết Thái bí mật đến Phan phủ một chuyến. Phủ đệ của Phan Phương cực kỳ đơn sơ, là một căn nhà nhỏ nằm ở một mảnh đất vắng vẻ, qua tường rào, Khương Trầm Ngư nhìn thấy một cô gái đang quét sân.

Dấu tuyết trên mặt đất còn chưa tan, nàng ta quét từng li từng tí một, quét rất cẩn thận.

Một lúc sau, Phan Phương từ trong nhà bước ra, khoác áo khoác lên người nàng ta, nàng ta ngẩng đầu, cười ngọt ngào với Phan Phương…

Khương Trầm Ngư nhìn đến đây, hạ lệnh cho phu xe quay về hoàng cung.

Trong xe ngựa trên đường về cung, nàng hỏi Tiết Thái một câu: “Ngươi nói xem Phan tướng quân lấy cái cô Phương Cô đó, thật sự không nuối tiếc chứ?”.

Tiết Thái trầm ngâm rất lâu, mới trả lời nàng: “Tiếc hay không ta không biết, nhưng hẳn là rất hạnh phúc”. Nói rồi, liếc xéo nàng một cái: “Lẽ nào nương nương hy vọng hắn cô độc đến cuối đời? Đừng có ác độc quá thế”.

“Đợi đã, ta ác độc ở chỗ nào?”.

“Đừng tưởng ta không biết trong lòng nương nương nghĩ gì, nương nương cảm thấy Phan Phương đã yêu Tần nương, thế thì cả đời này phải vì Tần nương mà giữ thân như ngọc, quyết không lấy vợ…”.

“Ta đâu có nghĩ như thế!”.

“Tốt nhất là đừng nghĩ như thế. Bản thân nương nương đã như thế này, đừng có mong người khác cũng phải giống mình”.

“Đợi đã, cái gì mà bản thân ta đã như thế này? Lẽ nào ngươi nói ta đang đố kỵ Phan Phương? Đố kỵ vì hắn cuối cùng đã được giải thoát khỏi chấp niệm với Tần nương, còn ta vẫn đang chìm trong bùn lầy?”.

Ѓ⹠là tự nương nương nói, ta không có nói”.

“Ngươi…”. Khương Trầm Ngư tức chết đi được, nhưng lại không có cách nào nói lại Tiết Thái, cuối cùng đành ra đòn sở trường lần thứ một ngàn lẻ một: “Ai gia không chấp trẻ con”.

“Ta chín tuổi rồi”.

“Vẫn là trẻ con”.

“Hứ”.

“Hứ…”.


/27

THICH DOC TRUYEN

Đa số thông tin và hình ảnh trên website đều được sưu tầm từ các nguồn trên Internet. Website hay upload-er không sở hữu hay chịu trách nhiệm bất kỳ thông tin nào trên đây. Nếu làm ảnh hưởng đến cá nhân hay tổ chức nào, khi được yêu cầu, chúng tôi sẽ xem xét và gỡ bỏ ngay lập tức.

LIÊN HỆ ADMIN

[email protected]

DMCA.com Protection Status